Thứ Năm, 28 tháng 8, 2008

Cuộc sống điêu tàn ở Nam Ossetia

Cuộc chiến ở Nam Ossetia do Gruzia châm ngòi gây thiệt hại cho khu vực này khoảng 4 tỷ USD và khiến hàng nghìn người thiệt mạng. Người dân địa phương đang sống trong cảnh đổ nát khắp nơi.
> Ảnh thủ phủ Tskhinvali sau cuộc chiến

Ảnh: RIA Novosti.
Một em bé đứng giữa đống hoang tàn của căn nhà bị bom đạn tàn phá tại Tskhinvali, thủ phủ Nam Ossetia. Ảnh: RIA Novosti.
Người phụ nữ kéo gạo qua khu của người Do Thái ở Tskhinvali nay chỉ còn là những đống gạch vụn. Hàng chục nghìn người Nam Osseita mất nhà cửa vì chiến tranh. Ảnh: RIA Novosti.
Khu nhà đổ nát trong một buổi trưa hoang vắng ở Tskhinvali sau khi im tiếng súng. Ảnh: RIA Novosti.
Ảnh: AP.
Hai em bé hồn nhiên đùa nghịch với khẩu súng đồ chơi ở Tskhinvali, trong khi những tòa nhà xung quanh vẫn còn ám khói đạn. Ảnh: AP.
Một trong rất nhiều mái nhà gỗ bị thủng vỡ nát sau cuộc chiến tại Nam Ossetia. Nga và chính quyền vùng đất ly khai này cho rằng có hơn 1.000 người địa phương đã thiệt mạng trong cuộc tấn công của quân Gruzia. Ảnh: RIA Novosti.
Người dân Tskhinvali xếp hàng nhận đồ ăn tiếp tế. Ảnh: RIA Novosti.
Em bé giữa đống đổ nát của căn nhà đã bị phá hủy hoàn toàn trong chiến tranh. Ảnh: RIA Novosti.
Một cụ già đi ngang qua khu nhà tan hoang ở Tskhinvali. Gruzia đánh úp Nam Ossetia đêm 7/8 bằng pháo hạng nặng và không quân nhằm tái chiếm vùng đất ly khai này. Chiến dịch của họ khiến Nga vào cuộc và làm bùng nổ cuộc chiến dữ dội kéo dài trong vài ngày. Ảnh: RIA Novosti.

Theo www.vnexpress.net

Thứ Tư, 27 tháng 8, 2008

Một cây kim, cứu một mạng người

rene Liu - (Lang Vườn trích dịch)

Kính thưa quí vị, có thể quí vị đã có đọc những dòng chữ này rồi, nhưng chúng tôi muốn trích dịch ra tiếng Việt Nam và phổ biến rộng rãi, trong hy vọng có thể cứu được mạng người trong cơn nguy cấp, khi chờ đợi được các chuyên viên Y-tế săn sóc.

Chỉ cần một ống tiêm thuốc (loại dùng xong rồi phế thải, bằng nhựa), hoặc một cây kim may, là chúng ta có thể cứu mạng một bệnh nhân đang bị chứng tai biến mạch máu não (stroke).

Việc cứu chữa thật đơn giản và dễ dàng một cách lạ lùng, nhưng có thể mang đến những kết quả cũng không kém lạ lùng và hữu hiệu. Chúng ta chỉ cần một phút để đọc tài liệu này, và các điều ghi trong tài liệu quả là những hướng dẫn tuyệt vời.

Xin quí vị ghi nhớ hoặc lưu giữ tài liệu này để sẵn sàng áp dụng, vì biết đâu, một ngày nào đó, quí vị sẽ dùng đến để cứu sống mạng người.

Cô Irene Liu kể chuyện: "Cha tôi bị tê liệt và chết sau đó vì ông là nạn nhân của bệnh tai biến mạch máu não. Ước chi tôi biết được thủ thuật này từ trước.
Khi tai biến mạch máu não xảy ra, tất cả những tia huyết quản nhỏ trong não bộ sẽ từ từ vỡ ra sau đó."

Khi có bệnh nhân bị tai biến mạch máu não, chúng ta phải giữ bình tĩnh, đừng cuống quít.
Điều quan trọng nhất là ĐỪNG BAO GIỜ DI CHUYỂN NẠN NHÂN, bất kỳ là họ đang bị nạn ở đâu. Vì nếu nạn nhân bị di chuyển, các tia huyết quản trong não bộ sẽ vỡ ra. Từ từ giúp bệnh nhân ngồi thẳng dậy, và chúng ta có thể bắt đầu công việc"rút máu".

Nếu quí vị có sẵn một ống tiêm thuốc, thì tốt nhất, nếu không thì một cây kim may hay một cây kim gúc, cũng có thể giúp chúng ta được.

1- Trước hết, chúng ta hãy hơ nóng kim bằng lửa (bật lửa, đèn nến) để sát trùng, rồi dùng kim để chích trên mười đầu ngón tay.

2- Chúng ta không cần tìm một huyệt đặc biệt nào cả, chỉ cần chích vào đầu ngón tay, cách móng tay độ một ly (milimetre).

3- Chích kim vào cho đến khi có máu rỉ ra.

4- Nếu máu không chảy, nên nặn đầu ngón tay cho đến khi thấy máu nhỏ giọt.

5- Khi máu đã chảy từ cả mười đầu ngón tay, thì chờ vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh dậy.

6- Nếu mồm bệnh nhân bị méo, thì chúng ta phải nắm hai (lỗ) tai của bệnh nhân kéo mạnh, cho đến khi hai tai đều ửng màu đỏ.

7- Châm vào dái tai (ear lobe) hai mũi mỗi bên cho đến khi máu nhỏ giọt từ mỗi dái tai. Sau vài phút, bệnh nhân sẽ tỉnh lại. Chúng ta hãy kiên tâm chờ cho đến khi bệnh nhân hoàn toàn hồi tỉnh và không có một triệu chứng nào khác thường mới mang bệnh nhân đến bệnh viện.

Vì nếu nạn nhân được chuyên chở vào bệnh viện sớm hơn. Có thể những dằn sóc của xe cứu thương sẽ làm cho các mao quản (capillaries) trong não bộ bị vỡ ra. Nếu sau khi đó mà họ còn có thể đi đứng được, thì đúng là do phúc đức của Tổ Tiên họ.

Cô Liu nói tiếp: "Tôi học cách cứu chữa qua cách làm xuất huyết này từ một Đông y tên Hà Bảo Định (Ha Bu-Ting). Ngoài ra, tôi còn có cơ hội áp dụng phương pháp này nữa. Vì thế nên tôi khẳng định là phương pháp hữu hiệu 100%. Năm 1979, tôi đang dạy tại Đai học Fung-Gaap tại Đài Trung. Một buổi trưa nọ, tôi đang giảng bài trong lớp, thì một giáo sư khác chạy sổ vào lớp học của tôi, vừa thở vừa nói "Cô Liu, đến gấp dùm, ông Giám sự của chúng ta đang bị tai biến mạch máu não".

Tôi chạy lên lầu 3 ngay tức thì và thấy ông Giám sự của chúng tôi là Trần Phúc Tiên, mặt mày nhợt nhạt, tiếng nói ngọng nghịu, và mồm thì méo xệch qua một bên, ông hội đủ tất cả những triệu chứng của một người đang bị tai biến mạch máu não. Tôi bảo một người sinh viên đang thực tập tại Đại học, đến Dược phòng bên ngoài mua cho tôi một ống tiêm, và dùng kim tiêm để châm đầu mười ngón tay của ông Trần, cho đến khi mỗi đầu ngón tay có một giọt máu cỡ hạt đậu. Sau vài phút, mặt ông Trần đã nhuận sắc trở lại, và mắt ông cũng đã bắt đầu có thần.
Nhưng mồm ông thì vẫn méo, nên tôi kéo hai tai ông cho đến khi hai tai đều đỏ vì máu đọng, rồi châm vào mỗi bên dái tai hai mũi để hai giọt máu tươm ra.

Khi hai giọt máu hai bên dái tai được rỉ ra, một phép lạ đã xảy ra. Chỉ nội trong vòng từ 3 đến 5 phút, mồm ông ta đã từ từ trở lại hình dạng nguyên thủy, và tiếng nói của ông cũng trở lại bình thường.

Chúng tôi để ông nghỉ ngơi một lúc, rồi rót cho ông một tách nước trà nóng rồi đưa ông đi đến bệnh viện Ngụy Hoa gần đó. Ông nghỉ ngơi tại bệnh viện một đêm, rồi hôm sau lại trở về nhiệm sở làm việc.

Sau đó, mọi việc đều bình thường. Ông không có triệu chứng nào nguy hại sau đó. Trái lại, các nạn nhân của bệnh tai biến mạch máu não thường khó trở lại bình thường, vì các tia máu trong não bộ bị vỡ trong khi xe cứu thương di chuyển họ đến bệnh viện. Kết quả là không thể làm cho họ vãn hồi lại trạng thái cũ."

Theo các thống kê, thì hiện nay, bệnh tai biến mạch máu não là nguyên nhân giết chết người ta hàng thứ nhì. Những người may mắn thì có thể sống còn, nhưng phải mang tật nguyền suốt đời. Đó là một tai họa khủng khiếp có thể xảy đến cho một cá nhân. Nếu chúng ta có thể ghi nhớ phương pháp cho xuất huyết trên đây, để có thể giúp đỡ những nạn nhân của căn bệnh quái ác này, để áp dụng tức thời trên nạn nhân, thì chỉ trong một thời gian ngắn, bệnh nhân sẽ tỉnh lại và được phục hồi 100%.

Chúng tôi hy vọng là quí vị có thể phổ biến tài liệu này để bệnh tai biến mạch máu não không còn là một căn bệnh giết người như hiện nay nữa.

Sưu tầm

Thứ Ba, 26 tháng 8, 2008

Những phi công cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân (phần 2)

10:30, 12/03/2008

Lễ truy điệu tổ bay cảm tử xuân mậu thân 1968 tại đoàn 919.

Tối hôm đó, các ông đã đốt một đống lửa to, mãi không thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3 lần mà chẳng thấy máy bay đâu, đến 11 giờ đêm thì mọi người nản quá không đốt nữa.

Trong ký ức đồng đội và người thân

Chúng tôi đã tìm gặp một số cựu chiến binh không quân của các tổ bay IL-14 tham gia chiến đấu trong chiến dịch Mậu Thân. Ông Lê Ngọc Chuyền, nguyên là cơ giới trên không của tổ bay xuất kích lúc 16 giờ 50 phút, ngày 7/2/1968 (trước tổ của phi công Phạm Kế 10 phút) cho biết: Ngày 7/2 có tất cả 6 chiếc IL-14 xuất kích, trong đó 3 chiếc mang vũ khí có nhiệm vụ hạ đồn Mang Cá ở Huế, còn 3 chiếc mang hàng tiếp tế cho chiến trường.

Tổ của ông Chuyền nằm trong nhóm đi hạ đồn Mang Cá do phi công Hoàng Liên lái chính. Theo kế hoạch, những chiếc IL-14 bay dọc biên giới Việt Lào, đến sông Sê-pôn thì thọc xuống biển rồi vòng vào Huế hạ thấp độ cao. Vì thời tiết xấu, nhóm đánh đồn Mang Cá không tìm thấy mục tiêu, 2 trong 3 chiếc đã bay trở ra cửa biển Cửa Việt (Quảng Trị) và bắn chìm 1 tàu chiến của địch, bắn 2 tàu khác bị thương rồi về sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn; còn chiếc của ông Chuyền trên đường quay về thì bị bắn thủng thùng xăng, phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay Sao Vàng (Thanh Hóa).

Ông Nguyễn Bình Sen, nguyên là cơ giới trên không và ông Nguyễn Văn Sửu, nguyên là lái phụ của một trong nhóm 3 chiếc có nhiệm vụ thả hàng (cùng tổ của phi công Phạm Kế) thì nhớ lại: Tổ của các ông do phi công Võ Minh Chung lái chính, khi vào Quảng Trị, đến địa điểm giao ước đã nhận thấy 3 đống lửa ám hiệu của quân ta và tiến hành thả hàng và vũ khí.

Thả xong, tổ bay của các ông còn liên lạc với tổ của phi công Phạm Kế một lần, khi tổ của Phạm Kế phát mật khẩu “bán hàng chưa” ông đã trả lời “bán rồi”. Sau đó chỉ có tổ của các ông trở về sân bay Gia Lâm, lần liên lạc là lần cuối cùng giữa ông và những người đồng đội trong tổ bay.

Sáng hôm sau các ông biết tin Đoàn 559 điện ra thông báo đã nhận được hàng do chiếc máy bay của ông thả, còn 2 chiếc cùng nhóm được biết một chiếc về đến Đô Lương (Nghệ An) thì bị Hạm đội 7 của Mỹ bắn và rơi trên đất Lào, còn một chiếc không thấy trở về và cũng không có tin tức gì. Những ngày sau đó các tổ bay IL-14 tiếp tục cất cánh vào Trị Thiên - Huế. Kết thúc chiến dịch Mậu Thân, tất cả có 4 chiếc IL-14 không trở về và cũng không có tin tức gì cho đến nay.

Tại lễ truy điệu các liệt sĩ được tổ chức tại Đoàn bay 919, ông Phạm Đình Đạt, nguyên là diễn viên múa Đoàn văn công Quân khu Trị Thiên - Huế, nay sống tại phường Nhân Chính (Hà Nội) cho chúng tôi biết, trong một đợt đi biểu diễn phục vụ mặt trận phía bắc Huế trong chiến dịch Mậu Thân, chính ông và 2 người nữa cũng được giao nhiệm vụ đốt lửa làm hiệu để máy bay thả hàng.

Tối hôm đó, các ông đã đốt một đống lửa to, mãi không thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3 lần mà chẳng thấy máy bay đâu, đến 11 giờ đêm thì mọi người nản quá không đốt nữa.

Ông Nguyễn Văn Sửu hiện ở ngõ 117, đường Nguyễn Sơn là người khá thân với phi công Phạm Kế, lái chính của tổ bay vừa được tìm thấy tại A Lưới. Ông kể: "Tôi và anh Phạm Kế cùng học ở Trường văn hóa Lạng Sơn về đơn vị cách nhau vài tháng. Ngày đó, chúng tôi được cán bộ Bộ Tổng tham mưu trực tiếp xuống giao nhiệm vụ. Sáu tổ bay được thành lập và tổ chức huấn luyện. Chúng tôi sơ tán về thôn Quán Khê, xã Dương Quang, cách sân bay Gia Lâm hơn 10km. Ở đó chúng tôi được học chính trị, học sơ đồ đường bay, tính toán trên bản đồ... Sau đó là tập bay đêm, một số đồng đội đã được bố trí đốt lửa làm địa tiêu để phi công bay tập nhận biết, tập thả hàng. Địa bàn huấn luyện và đốt lửa chủ yếu ở vùng tây bắc. Sau này chúng tôi mới biết tập để vào Trị Thiên thả hàng sẽ hiệp đồng đốt lửa như vậy.

Đến tháng 2/1968 thì Tư lệnh Phùng Thế Tài cho gọi chúng tôi về sân bay Gia Lâm. Từng tổ được giao nhiệm vụ riêng. Chúng tôi hiểu rằng đây là nhiệm vụ hết sức đặc biệt và quan trọng. Các máy bay tham gia phải xóa hết Quốc kỳ, số hiệu; tổ bay phải bỏ lại mọi thứ tư trang hành lý, nhất là các giấy tờ tùy thân, mỗi người được phát một bộ quần áo Quân giải phóng để mặc. Các việc làm trên nhằm mục đích dù thế nào cũng không để lộ là quân từ Bắc vào. Trước khi xuất kích, các tổ bay đều được chụp ảnh kỷ niệm.

Mọi người đều xác định tốt nhiệm vụ nên coi những chuyến đi ấy rất nhẹ nhàng. Trong đơn vị ai cũng xác định tư tưởng là vậy nhưng khi các tổ bay không trở về cả đơn vị buồn bã, mọi người nhìn nhau không nói được câu nào, cả nhà ăn vắng hoe. Chị nuôi quân nấu một nồi quân dụng cháo gà to ngồi chờ mãi nhưng chẳng ai trở về, chẳng ai đến ăn...". Ngày ấy ông Sửu cùng với phi công Phạm Kế ở cùng một phòng trong nhà trọ của ông Bảy ở thôn Quán Khê. Anh Kế là người hiền lành, trầm tính nhưng hay đùa, dí dỏm. Khi đó, anh đã có vợ và con.

Chúng tôi đến thăm gia đình của liệt sĩ phi công Phạm Kế. Hiện nay vợ và 3 người con của ông vẫn sống ở Gia Lâm, cách Đoàn bay 919 không xa. Bà Hạnh, vợ của liệt sĩ, năm nay đã ở tuổi 70, dáng người khắc khổ lam lũ, đôi mắt đục mờ, nghẹn ngào kể: “Tôi và ông ấy tuy có với nhau 3 mặt con nhưng sống bên nhau chả được mấy ngày, vợ chồng còn chưa thuộc hết tính nết của nhau thì ông ấy đã hy sinh”.

Quê ông bà ở xã Trung Lương, Đức Thọ (Hà Tĩnh). Ông sinh năm 1934, là con cả trong gia đình nông dân. Năm 1953, ông tình nguyện đi bộ đội, đơn vị đóng bên cầu Hiền Lương (Quảng Trị). Đến năm 1956 thì ông nghỉ phép về cưới bà, cưới nhau được 4 ngày thì ông trở lại đơn vị, khi ấy bà mới 20 tuổi. Sau đó ông chuyển ra một đơn vị pháo binh đóng quân ở Nghệ An, điều kiện gặp mặt giữa hai vợ chồng càng thưa thớt hơn.

Năm 1957, ông được quân đội cho đi học văn hóa ở Lạng Sơn, rồi học lái máy bay và về công tác tại Đoàn bay 919. Năm 1962, bà lại ra Hà Nội ở nhờ nhà người anh trai để được gần chồng. Kết quả chuyến đi ấy là bà đã mang thai và sinh đứa con đầu. Cũng muốn ở lại Hà Nội cho vợ chồng con cái gần gũi nhưng ở quê còn mẹ chồng, cụ lại rất mong cháu nên bà đã bế con về quê ở. Năm 1965, lần đầu tiên ông được về quê ăn tết với gia đình, cũng dịp ấy bà có mang đứa con thứ hai. Đến năm 1966 thì bà chuyển ra Hà Nội để vợ chồng đoàn tụ, đứa con lớn để ở quê với bà nội. Mang tiếng là gần nhau thật nhưng do nhiệm vụ thời chiến căng thẳng, những người lính Không quân ngày đêm phải trực chiến và thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt nên chồng bà cũng chẳng được đảo qua nhà mấy khi. Ra Hà Nội, bà xin vào làm công nhân tại Nông trường bò An Khánh gần sân bay Gia Lâm, mấy mẹ con mượn tạm gian nhà kho trải chiếu ra nền nhà ở tạm. Hôm nào ông về, người bảo vệ nông trường ở gần đó lại thương tình đi chỗ khác ngủ, nhường cho vợ chồng bà mượn tạm căn phòng cùng chiếc giường của mình. Những ngày trước tết Mậu Thân năm 1968 là những ngày vui vẻ của gia đình. Ông nói với bà, năm nay mà được nghỉ thì mùng 4 tết sẽ về để ăn tết với mấy mẹ con cho gia đình sum họp. Thế rồi, nhiệm vụ quá căng thẳng cứ cuốn đi, ông không tạt qua nhà được dù chỉ một lát. Cái tết lặng lẽ trôi qua.

Năm ấy địch đánh nhiều, mẹ con bà phải sơ tán đến ở trong một chiếc lò gạch cũ ở Làng Nha. Một buổi tối, sau tết hơn một tuần, khi mấy mẹ con bà đã yên giấc thì ông về, lúc đó đã là 2 giờ sáng. Ông thông báo sắp đi công tác. Rồi ông kéo bà lại và bảo: “Nếu một tháng sau mà không thấy anh trở về thì anh không còn nữa đâu, em chịu khó nuôi con, sau này con lớn thì nhờ chúng nó...”. Bà vừa khóc vừa hỏi: “Sao anh lại nói thế, sao anh lại không về?”. Thấy thế ông cười bảo, anh nói đùa đấy mà, anh mà chết thì ai sống với mẹ con em?

Bà đã ôm lấy ông mà khóc, linh cảm rằng ông sắp sửa nhận một nhiệm vụ rất quan trọng. Buổi tối mùng 10 tết năm đó là buổi tối cuối cùng bà được ở với ông. Sáng hôm sau, ông ra đi khi trời còn nhập nhoạng, và... không trở về. Sau đó, một tuần thì bà trở dạ sinh đứa con thứ ba. Đơn vị cử người ra thăm nói rằng ông đang học ở Trung Quốc không về được, có gửi cho chị và cháu chút quà gồm một cân miến, một gói chè, một bao thuốc lá, một gói kẹo và một lọ nước hoa, một lọ phấn rôm cho cháu bé mới sinh. Bà nghẹn ngào trong nước mắt: “Tôi biết chồng tôi hy sinh rồi, hãy cho tôi biết anh ấy hy sinh ngày nào để tôi còn cúng giỗ cho anh ấy... Đừng giấu tôi làm gì...”.

Sau khi ông Kế hy sinh, biết bao khó khăn chồng chất lên vai bà Hạnh. Một mình bà phải làm nuôi 3 con cùng mẹ chồng và bố đẻ ở quê ra vì nhà cụ ở quê bị trúng bom Mỹ, cháy hết không còn gì. Đến năm 1978 thì bà chuyển từ Nông trường An Khánh về làm nuôi quân ở Đoàn bay 919 là đơn vị của ông. Tần tảo làm lụng, thờ chồng nuôi con, đến nay các con của bà đều đã trưởng thành và có gia đình riêng, tuy chưa khá giả nhưng cũng có nghề nghiệp ổn định. Cả 3 người con của ông bà hiện đều công tác trong Tổng Công ty Hàng không, anh cả Phạm Ngọc Hải làm lái xe, người con gái Phạm Phi Yến làm kế toán ở Đoàn tiếp viên, người con trai út Phạm Ngọc Lâm sinh năm 1968, ngay sau khi cha hy sinh, nay làm ở bộ phận kiểm soát không lưu.

Một thành viên nữa của tổ bay là liệt sĩ Ngô Phượng Châu. Anh là người được những đồng đội còn lại và gia đình hết lời ca ngợi về tài năng và đức độ. Trong tổ bay của phi công Phạm Kế, Ngô Phượng Châu đóng vai trò dẫn đường. Ngay sau khi biết tin đã tìm được nơi tổ bay hy sinh, gia đình của liệt sĩ Ngô Phượng Châu gồm mẹ ông và 4 người em đã tìm đến cám ơn Quân chủng Phòng không - Không quân và Đoàn bay 919, tìm gặp những người đã trực tiếp đi vào A Lưới, nơi các anh hy sinh để tìm hiểu rõ hơn sự việc. Cụ Ngô Thị Tuyết là mẹ của liệt sĩ nay sống tại khu tập thể 1A - Đặng Thái Thân (Hà Nội) nghẹn ngào nói: “Gần 40 năm nay tôi tính từng ngày, biết rằng con là lính không quân, hy sinh thì cũng chẳng mong gì tìm thấy thi thể nhưng không ngờ sau bấy nhiêu năm lại có ngày tìm thấy nơi con ngã xuống, dù cho xương cốt không còn gì thì đó vẫn là một niềm an ủi lớn với gia đình”.

Liệt sĩ Ngô Phượng Châu sinh năm 1942. Gia đình anh là hậu duệ đời thứ bảy của Ngô Thời Nhậm. Mẹ anh vẫn nhớ như in hình ảnh cậu con trai ngộ nghĩnh khi nhà còn ở phố Khâm Thiên những năm đầu kháng chiến chống Pháp, mặc dù mới 5 tuổi đầu nhưng đã cầm cờ kháng chiến chạy dọc hành lang trên gác hô to “ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Việt Minh”. Khi gia đình chuyển lên sinh sống tại Việt Bắc, Phượng Châu được đi học Trường thiếu sinh quân ở Quế Lâm, Trung Quốc. Trước ngày lên đường anh còn tranh thủ vào rừng lấy củi cho mẹ chứa đầy gian bếp vì bà sắp đến ngày sinh nở. Cho đến trước lúc lên xe, được chia mỗi người một mũ lạc rang, anh còn tách khỏi các bạn chạy về đưa qua cửa sổ cho các em của mình. Trước khi mất, bố của liệt sĩ Ngô Phượng Châu chỉ mong sao có một ngôi mộ của anh trong một nghĩa trang nào đó, dù là mộ tượng trưng, để tưởng nhớ đến người con của gia đình.

Chị Ngô Thanh Tâm là em gái của liệt sĩ Ngô Phượng Châu, hiện công tác tại Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng thì lại nhớ về hình ảnh anh trai mình như một người anh ân cần tận tụy. Lá thư cuối cùng Ngô Phượng Châu gửi cho em trước khi hy sinh trong chuyến bay cảm tử, anh đã dặn dò em gái nhiều điều, đặc biệt còn chép tặng chị bài hát “Em là hoa pơ lang” và bốn câu thơ mừng sinh nhật lần thứ 20 của em gái. Trước khi lên đường thực hiện chuyến bay ngày 7-2-1968, anh mới cưới vợ được 10 ngày. Gia đình và vợ anh, chị Trịnh Thơ Thơ, lâu không thấy anh về thì sốt ruột lắm nhưng không biết làm sao. Sáu tháng sau ngày anh hy sinh, gia đình mới nhận được giấy báo tử. Chị Trịnh Thơ Thơ mãi sau này mới đi bước nữa, nhưng vẫn là một thành viên trong gia đình anh Ngô Phượng Châu.

Sau khi biết tin tìm thấy tổ bay cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân, chị Trần Thị Mây Lai ở thị trấn Bố Hạ, Yên Thế (Bắc Giang) cũng đã tìm về Đoàn bay 919 để thắp hương cho anh trai mình là liệt sĩ Trần Văn Thái trong tổ bay của phi công Phạm Kế. Chị Lai cho biết, bố mẹ chị chỉ có hai anh em. Anh Thái sinh năm 1945. Bố của anh chị là liệt sĩ chống Pháp, anh là con trai duy nhất trong diện được miễn nghĩa vụ quân sự nhưng khi Bộ đội Không quân về tuyển quân, vì rất yêu thích nên anh đã tình nguyện đi học lính dù. Sau này anh về nhận công tác tại Sư đoàn dù B05.

Trong chiến dịch Mậu Thân 1968, sư đoàn anh có nhiệm vụ phối hợp cùng Đoàn bay 919 để bay vào Trị Thiên - Huế thả hàng cho chiến trường. Trước tết năm đó anh được về thăm nhà mấy ngày. Anh nói với mẹ: Nhà mình dột lắm rồi, để con đi mấy ngày rồi con về con sửa cho mẹ, cho em. Và anh dặn chị Lai, anh đi ở nhà mẹ có ốm đau gì thì em nhờ hàng xóm, họ hàng giúp đỡ. Thế rồi anh đi, và đi mãi không về...

Khi từ A Lưới, Thừa Thiên - Huế trở về, chúng tôi đi trên con đường Hồ Chí Minh mới mang theo 8 phần hài cốt tượng trưng của các thành viên trong tổ bay cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Bốn mươi năm, dù vật đổi sao dời, nhưng các anh - những tổ bay cảm tử - vẫn được tạc bia trong lòng đồng đội, trong lòng những người thân yêu

Theo www.cand.com.vn

Những phi công cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân (phần 1)

9:30, 12/03/2008

Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968, nhằm chi viện cho chiến trường, Bộ Tư lệnh Phòng không - Không quân đã tổ chức một số chuyến bay tiếp tế lương thực, vũ khí vào Trị Thiên - Huế.

Từ bức thư của một cựu chiến binh

Thực hiện nhiệm vụ này đối với các tổ bay quả là rất nguy hiểm, phải bay trong vùng kiểm soát của địch ở độ cao thấp để tránh rađa phát hiện nên rất dễ xảy ra tai nạn như va vào núi hay gặp phải hỏa lực phòng không, nhưng anh em các tổ bay vẫn quyết tâm thực hiện nhiệm vụ, họ coi những chuyến bay đó như những chuyến bay cảm tử. Và cuối cùng thì 4 chuyến bay cùng 32 chiến sĩ đã ra đi mà không trở về... Nhưng trong lòng người thân và đồng đội họ vẫn sống.

Một ngày đầu tháng 6/2005, Quân chủng Phòng không - Không quân nhận được một bức thư gửi đồng chí Tư lệnh. Bức thư của ông Lại Văn Vượng ở 91 - Mê Linh, quận Lê Chân (TP Hải Phòng). Ông Vượng nguyên là chiến sĩ Sư đoàn 324 - đã có thời gian dài tham gia chiến đấu ở tây Thừa Thiên - Huế. Ông Vượng cho biết, trong chuyến về thăm lại chiến trường xưa hồi tháng 5/2005 ở vùng A Lưới (một huyện miền núi của tỉnh Thừa Thiên - Huế sát biên giới Việt - Lào) ông đã tình cờ biết được câu chuyện về một chiếc máy bay rất có khả năng là của ta bị rơi trên khu rừng gần xã Hồng Thượng. Theo bà con dân tộc Pa Kô kể lại thì thời điểm máy bay rơi khoảng năm 1965-1966 gì đó, thi thể tổ bay thu lượm được đã được một số đồng bào dân tộc chôn cất trên khu rừng đó.

Ông Vượng cũng cho biết, hiện nay tại nhà của ông Nguyễn Xuân Toàn ở xã Hồng Thượng, huyện A Lưới còn giữ được một số hiện vật của chiếc máy bay nói trên. Riêng mấy ngôi mộ thì mấy chục năm qua vẫn yên vị ở chỗ cũ giữa khu rừng hoang lạnh, chẳng thấy ai đến thăm hỏi, cũng không đoàn quy tập nào đến tìm và bốc đi.

Ông Vượng còn cẩn thận chụp một số ảnh bằng chiếc máy tự động của mình, khi trở về ông đã làm ảnh và gửi 5 bức ảnh kèm theo lá thư để thêm căn cứ, trong đó có bức ảnh ông Toàn đứng bên mảnh cánh máy bay tại nhà. Ông Vượng cho rằng, rất có thể đây là máy bay của ta bị gặp nạn trong chiến tranh mà chưa ai biết.

Tổ bay của phi công Phạm Kế trước lúc lên đường làm nhiệm vụ

Ông viết bức thư trên với hy vọng những thông tin ấy sẽ giúp cho Quân chủng Phòng không - Không quân xác minh và nếu đúng thì có thể sẽ tìm ra được tên tuổi tổ bay và đưa các anh về quê hương.

Năm 1968, sau khi sự việc 4 tổ bay không trở về, Quân chủng Phòng không - Không quân đã gửi công văn đi khắp các đơn vị, tỉnh, thành đề nghị phối hợp tìm kiếm và thông báo giúp, mong tìm ra tung tích những chiếc máy bay mất tích nhưng sự việc vẫn rơi vào im lặng, không có hồi âm.

Việc phi công chiến đấu gặp nạn trong chiến tranh không tìm thấy thi thể vẫn thường xảy ra, nhưng trong sự việc này thì quá đặc biệt, trong vòng 5 ngày cả 4 chiếc máy bay mất tích gồm 32 con người và gần chục tấn hàng mà không để lại một dấu vết gì thì quả là hy hữu. Các đồng chí tham gia các tổ bay đã được công nhận là liệt sĩ nhưng chẳng hề biết đích xác hy sinh ở đâu, một mẩu xương để cho người thân, đồng đội an lòng cũng là vô vọng. Gần 40 năm nay, người thân của các liệt sĩ vẫn sống trong niềm khắc khoải.

Sau khi nhận được bức thư trên, Quân chủng Phòng không - Không quân đã tổ chức kiểm tra hồ sơ lưu, lần lại lịch sử và nhận định, nếu đúng như thông tin cung cấp thì rất có khả năng đó chính là 1 trong 4 tổ bay IL-14 mất tích vào tháng 2/1968.

Ngay sau đó, Quân chủng Phòng không - Không quân đã thông báo và phối hợp cùng Đoàn bay 919 - là đơn vị chủ quản của tổ bay mất tích năm 1968, nay thuộc Tổng Công ty Hàng không Việt Nam để đi vào A Lưới xác minh sự việc. Sau hai lần đi lại, tìm đến địa điểm máy bay rơi và khu rừng anh em đã được chôn cất cũng như làm việc với cơ quan chức năng địa phương, ngày 11/7/2005, đoàn công tác đặc biệt của Quân chủng Phòng không - Không quân và Đoàn bay 919 đã lên đường vào Thừa Thiên - Huế để tiến hành tìm kiếm một số hiện vật và đưa hài cốt các liệt sĩ về an táng. Đoàn công tác gồm có ông Lê Xuân Đức - nguyên là một phi công cảm tử ngày ấy đã may mắn trở về; anh Lương Hữu Thuận, nguyên là kỹ thuật viên của loại máy bay IL-14, 2 cán bộ chính sách của Đoàn 919; anh Hùng - trợ lý chính sách của Quân chủng Phòng không - Không quân và tôi.

* * *

Huyện đội A Lưới nằm ngay ven đường Hồ Chí Minh mới. Nhờ sự giúp đỡ của Bộ chỉ huy quân sự huyện, chúng tôi tiếp tục xuống xã Hồng Thượng và xã Phú Vinh nhờ giúp đỡ. Tại địa bàn, những người dân trực tiếp tham gia mai táng tổ bay năm 1968 hầu hết đều đã mất. Theo chỉ dẫn trong bức thư của ông Lại Văn Vượng gửi đến Quân chủng Phòng không - Không quân, chúng tôi tìm đến nhà ông Nguyễn Xuân Toàn. Rất may, từ đây đã tìm ra manh mối.

Đó là một gia đình dân tộc Pa Kô, dù có tham gia công tác xã thời gian dài nhưng giọng nói của ông và những người trong gia đình vẫn là thổ ngữ, ngọng nghịu rất khó khăn cho chúng tôi trong việc tiếp cận và tìm hiểu sự việc. Theo Toàn nói: “Lúc đó khoảng 7 giờ tối, tôi thấy một chiếc máy bay bay từ hướng thành phố Huế lên, một lúc sau một tiếng nổ rất lớn vang lên trong cánh rừng, sau đó những mảnh xác máy bay bắn tung tóe văng ra tận nơi gia đình tôi ở”.

Nhà ông Toàn khi đó sơ tán vào rừng, ở ngay gần nơi xảy ra sự việc. Sau đó, ông cùng với một số người trong làng đã tìm đến hiện trường thấy mảnh xác máy bay văng mỗi nơi một ít, một số vũ khí như súng K54, AK và nhiều nhất là lựu đạn còn nguyên cả hòm. Sáng hôm sau, mọi người bảo nhau tìm kiếm thì thấy một số bộ phận cơ thể phi công rơi rải rác chẳng biết mấy người, ruột gan và tóc mắc cả trên cây rừng, ông Toàn phải trèo lên gỡ xuống. Ông còn nhớ một mảng tóc có màu hung và hơi dài.

Sau đó, ông Toàn cùng với một người tên là Bo Hiêng và một số người khác đã tổ chức mai táng những gì tìm thấy. Trên mảnh cánh dài gần 3 mét, rộng gần 1 mét tại gia đình ông Toàn, anh Lương Hữu Thuận tìm được tất cả 13 vết đạn. Mảnh cánh này đã được ông Toàn lấy về, những năm trước nó được dùng làm giường ngủ. Sau này nó được dùng làm bàn, đứng trên 4 chiếc chân gỗ kê bên gốc cây gần bếp, gia đình ông vẫn dùng để... băm rau lợn. Trong nhà cũng còn một số hiện vật nữa của máy bay như tủ thuốc quân y trang bị trên máy bay vẫn còn màu đỏ của chữ thập sơn trên nắp hộp, một chiếc thùng đựng bình ắcquy được gia đình ông sử dụng đựng quần áo nhưng đã cho cô con gái làm “của hồi môn” khi đi lấy chồng ở xã bên...

Tuy nhiên, chỉ căn cứ vào các hiện vật thì việc xác định đây là tổ bay nào trong 4 tổ bay cảm tử không trở về là rất khó, bởi các nhân chứng không nhớ ngày, tháng diễn ra sự việc. Ông Lê Xuân Đức, trưởng đoàn tìm kiếm cho rằng, căn cứ vào lời kể và một số hiện vật tìm được thì rất có thể đây là chiếc máy bay IL-14, mang số hiệu 506 do phi công Phạm Kế lái chính, xuất kích lúc 17 giờ ngày 7/2/1968 bởi trong tổ bay này có anh Nguyễn Văn Tê đầu bị hói nên anh thường để tóc dài rồi vuốt lên che phần hói đi nên khá khớp với lời kể của ông Toàn rằng có một mảng đầu tóc dài màu hung, còn việc màu tóc thì thực tế cho thấy trong những vụ tai nạn máy bay, tóc phi công và tổ lái bị đổi màu là chuyện thường, có vụ phi công tóc đen nhánh nhưng khi thu hồi thi hài, nhiều mảng đã trở nên bạc trắng. Tuy nhiên đó cũng chỉ là dự đoán. Kết thúc buổi tiếp xúc với gia đình ông Toàn, chúng tôi đặt vấn đề nhờ ông Toàn cùng một số thanh niên địa phương ngày hôm sau đưa vào nơi máy bay rơi.

Sáng hôm sau, chúng tôi có mặt tại điểm tập kết trên đường Hồ Chí Minh thuộc xã Phú Vinh. Những thanh niên địa phương cũng có mặt. Lên đường. Chúng tôi lội qua rất nhiều con suối, len lách trong cây rừng, dù đã cẩn thận bôi thuốc chống côn trùng nhưng đi một đoạn, tôi vén chân lên thì đã thấy một vài chú vắt đang bám riết lấy bắp chân hút máu.

Các thanh niên địa phương đi trước, chặt cây rừng mở đường, họ có mang theo các dụng cụ để tìm kiếm hài cốt. Hai tiếng cuốc bộ đường rừng, khi bàn chân tôi gần như không muốn bước nữa thì cũng là lúc đến nơi. Địa điểm máy bay rơi là một sườn núi cao, độ dốc lớn nên các bộ phận của máy bay cũng phân tán rất rộng: dưới khe suối là nơi “dừng chân” của phần động cơ, đạn cối; rải rác từ trên đỉnh xuống khe suối là các mảnh dù để thả hàng nay vẫn chưa bị phân hủy; bên những hốc đá và trên một số chạc cây rừng, vẫn còn mắc những mảnh dù thả hàng; rải rác đây đó là những mảnh nhựa có chữ tiếng Nga, một quả lựu đạn chày còn sót lại.

Chiếc lốp máy bay thì đồng bào dân tộc đã cắt về làm dép cao su hết, chỉ còn một ít cao su sát vành sắt lủng liểng. Qua những gì còn lại tại hiện trường, ông Đức khẳng định đây chính là tổ bay của phi công Phạm Kế, vì xung quanh khu vực máy bay rơi còn nhiều mảng dù lớn để thả hàng nằm rải rác nay vẫn chưa bị phân hủy (tổ của anh Kế có nhiệm vụ thả dù hàng hóa, vũ khí nên cần rất nhiều dù). Sâu dưới lòng khe suối là hai chiếc “huyệt” còn mới do những người tìm phế liệu đào lấy động cơ để bán còn để lại miệng hố rộng hoác.

Nguyễn Văn Hải, một thanh niên dân tộc PaKô thuộc xã Phú Vinh là người được chúng tôi nhờ tham gia đoàn tìm kiếm kể, tháng trước chính anh đã đào chiếc tuốcbin này cùng với mấy chục quả đạn, tất cả được hơn 2 tạ đi bán cho hàng đồng nát được hơn 200 ngàn đồng. Bà con dân tộc địa phương thì nhặt nhạnh, đào bới những phần có thể lấy đi được; còn lại những mảng lớn, gần đây một số người dân ở nơi khác đem cưa nhỏ mang đi, đến nay thì những bộ phận lớn của máy bay bằng sắt thép đã bị “thanh toán” sạch.

Nhìn trước ngó sau một hồi, định vị lại địa hình theo trí nhớ, ông Nguyễn Xuân Toàn đã dẫn đoàn công tác đến vị trí mai táng. Chỉ một bãi đất trống, không có cây cổ thụ mà chỉ có những cây dại lúp xúp, ông gật đầu ra hiệu. Hai cán bộ của Đoàn 919 lụi cụi phát cây, tạo ra một khoảng trống, trải ra mảnh nilon màu xanh. Một chiếc thùng các-tông được úp ngược và trải giấy lên làm bàn, hoa quả, đồ lễ được bày ra.

Ông Lê Xuân Đức thắp hương và quỳ lạy: “Kính thưa linh hồn các anh trong tổ bay cảm tử xuân Mậu Thân, tôi là Lê Xuân Đức, là đồng đội của các anh đây. 40 năm qua, chúng tôi và đơn vị đã tìm kiếm các anh mà vẫn bặt vô âm tín, nay nhờ bà con chỉ giúp mới tìm được đến đây, mong các anh xá tội. Các anh sống khôn chết thiêng, cho chúng tôi gặp mặt, để đưa các anh trở về với gia đình, với đồng đội và quê hương...”. Sau khi làm các thủ tục về tâm linh, đoàn tiến hành đào, khoảng 20 phút sau thì tìm được một bọc nilon gói tròn nằm sâu cách mặt đất khoảng 70 cm.

Ông Toàn xác nhận đây chính là bọc mà ông cùng với những người dân chôn cất khi xưa. Tuy nhiên, khi mở bọc ra thì chỉ còn lại một số mảnh dù và đất đen, còn lại mọi thứ đã tiêu tan hết. Dưới những nhát cuốc khi thì hiện ra một chiếc tai nghe của phi công, khi thì một mảnh nhỏ bộ phận nào đó của máy bay có những hàng chữ tiếng Nga, khi thì một hộp dầu gió... Mười lăm phút sau đó, dưới nhát cuốc của một thanh niên, lại lộ ra một bọc nữa. Mọi người hồi hộp xúm lại, đất được bới nhẹ nhàng xung quanh, bọc nilon dần lộ ra. Ông Đức tay run run đỡ chiếc bọc màu xanh đưa lên mặt đất.

Chiếc bọc được thận trọng cắt dây buộc và nilon đã đông cứng, từng lớp, từng lớp được mở ra. Tất cả bao trùm một sự yên lặng. Tôi cảm giác từng chiếc lá cây rừng Trường Sơn cũng bất động. Không một làn gió, chỉ có tiếng sột soạt của nilon được gỡ tiếp. Mọi người trong Đoàn gần như chết lặng khi bất ngờ hiện ra hai dải xương dài chừng gang tay khi mà mọi thứ đã gần như không còn hy vọng. Đó là hai đoạn xương cánh tay.

Đoàn tìm kiếm cùng với thanh niên địa phương tiếp tục đào bới, nhưng không mang lại kết quả gì, ông Toàn cũng khẳng định đã hết. Như vậy là hài cốt toàn bộ tổ bay 8 người gom lại chỉ được bấy nhiêu. Hai dải xương cùng tất cả các hiện vật tìm thấy được chia làm 8 phần, cả những mảnh nilon và dù bay... 8 phần hài cốt tượng trưng được bọc vải đỏ, xếp thành hàng ngang. Ông Đức thắp một bó hương to cắm lên khói hương nghi ngút, những dải khói xanh uốn lượn len lách giữa màu xanh cây lá.

Cả đoàn công tác cùng đứng nghiêm cúi đầu mặc niệm. Ông Đức khấn cảm tạ các liệt sĩ. Đúng lúc đó, nắm hương cắm trước 8 phần thi hài bỗng bùng cháy... Trời Trường Sơn bừng nắng, những giọt nắng lọt qua tán cây chiếu trên 8 bọc vải đỏ ngay ngắn trước khói hương.

Khi trở về A Lưới, theo chỉ dẫn của Hải, chúng tôi tìm đến một điểm thu mua phế liệu nằm trên địa bàn trị trấn, quả nhiên đã thấy một số bộ phận của máy bay. Ông Lê Xuân Đức nhận ra một phần động cơ và bộ điều tốc của máy bay IL-14 nằm lẫn trong đám sắt vụn đủ chủng loại. Chủ hàng cho biết đã mua những hiện vật trên với giá 700 đồng 1 kg, nếu cần mua lại thì... giá 3.000/kg. Ông Đức đang đứng từ từ ngồi xuống, tần ngần mân mê những lá tuốcbin của động cơ. Tôi nhìn đống phế liệu là những bộ phận chiếc IL-14 của tổ bay cảm tử, nhìn ông Đức, cảm thấy xúc động dâng trào.

(Còn tiếp)

Theo www.cand.com.vn

Bí mật kiến trúc của kinh đô Bắc Kinh

8:40, 20/06/2008

Phật Hương các trên Vạn Thọ Sơn, phía dưới là hồ Côn Minh.

Bắc Kinh là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Căn cứ các số liệu mới được công bố gần đây thì diện tích tự nhiên của Bắc Kinh là 16.808 km2 được mở rộng trong đó khu nội đô là 2.738 km2. Số dân của Bắc Kinh là 10.819.000 người gồm đủ 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm 96%.

Nằm trên đỉnh phía bắc của bình nguyên Hoa Bắc, lưng dựa vào dãy núi Yên Sơn và cao nguyên Nội Mông hùng vĩ, phía tây là dãy Thái Hoàng Sơn, phía đông là vịnh Bột Hải, phía nam là vùng đồng bằng rộng lớn, Bắc Kinh là 1 trong 6 kinh đô của các triều đại Trung Quốc (TQ) với bề dày hơn 3.000 năm lịch sử. UNESCO đã đánh giá Bắc Kinh là một trong những kinh đô còn giữ được những kiến trúc cổ từ hàng mấy ngàn năm trước và rất nhiều trong số đó được bảo tồn hầu như nguyên vẹn cho tới ngày nay. Bắc Kinh cũng được đánh giá là một trong những thủ đô có phong cách kiến trúc hiện đại, nhưng cũng là thủ đô mang đậm “tính phương Đông điển hình”.

Theo các nhà địa lý và phong thủy học thì một trong những nguyên nhân để Bắc Kinh có được những đặc điểm đó vì Bắc Kinh ở vào vị trí đặc biệt, là nơi “hội tụ Trung Hoa linh khí chi địa” (nơi hội tụ của khí thiêng Trung Hoa). Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến nhiều thế hệ các nhà khoa học TQ và thế giới bỏ ra nhiều công sức để nghiên cứu Bắc Kinh.

Bằng nhiều con đường nghiên cứu khác nhau, trong đó có việc tiếp cận vấn đề theo phương pháp truyền thống dân gian (mà người TQ gọi là phong thủy học) kết hợp với việc sử dụng những phương tiện nghiên cứu hiện đại (như sử dụng ảnh vệ tinh đa chiều, chụp ảnh bằng hồng ngoại, viễn thám, địa chất, địa đồ, kiến trúc...) các nhà khoa học TQ và thế giới đã phát hiện ra những đặc điểm “rất lạ lùng” trong kiến trúc xây dựng thành cổ Bắc Kinh của người xưa.

Một trong những “đặc điểm lạ lùng” đó là bố cục hình tượng “song long” (hai con rồng) trong bố cục toàn cảnh kiến trúc của Bắc Kinh. Con rồng thứ nhất được gọi là “thủy long” (rồng nước), còn con thứ hai là “lục long” (rồng cạn) vô cùng kỳ thú.

Quả thực nếu quan sát từ trên máy bay hoặc căn cứ vào bản đồ thực địa, người ta dễ dàng nhận ra ngay hình tượng của hai con rồng đó. Toàn bộ hệ thống các hồ đầm của Bắc Kinh đã tạo ra một "thủy long" hướng theo hướng tây bắc cực kỳ sinh động. Thủy long có đầu là Nam Hải, mắt là đảo Hồ Tâm, thân được tạo bởi Trung Nam Hải và Bắc Hải, còn Thập Sa hải chính là phần đuôi. Lục long thì lại được tạo nên bởi hệ thống trục đường giao thông chính của Bắc Kinh. Thiên An Môn chính là cái mõm, Kim Thủy kiều là cái sừng, hai đường đông và tây Tràng An chính là hai cái râu, cả một dải từ Thiên An môn đến Ngọ môn chính là cái mũi.

Thái Miếu và di chỉ của đền Xã Tắc chính là hai cái mắt, Cố Cung là phần thân và phần xương đuôi, 4 ngôi lầu ở 4 góc hợp thành 4 cái móng. Đường Cảnh Sơn, đường Địa An môn và Chung Cổ lầu tạo thành dải đuôi. Còn Chính Dương môn như một hạt bảo ngọc mà rồng đang vươn tới, tạo thành một lục long với thế rất phi phàm khiến người ta phải kinh ngạc.

Có thể bố cục “song long” của Bắc Kinh được hoạch định ngay từ khi được khởi công xây dựng vào triều Minh (1368-1644), bởi hình tượng “rồng” phản ánh tư tưởng “quân, thần” (vua, tôi) rất được đề cao trong giai đoạn lịch sử này. Nhìn từ một góc độ nào đó thì người xưa đã quan niệm Bắc Kinh là “hưng long chi địa” (mảnh đất của rồng), còn các bậc đế vương là “thiên hạ long chủng” (vua là rồng từ trên trời xuống).

Đây được đánh giá là nét đặc sắc nhất trong việc áp dụng những tri thức về mặt phong thủy học phương Đông vào trong quy hoạch tổng thể cũng như trong từng khu riêng biệt của những kiến trúc sư khi tạo dựng nên kinh đô Bắc Kinh. Và đây cũng có thể là một đặc điểm hiếm thấy ở bất kỳ một thành phố nào khác trên thế giới.

Không chỉ có sự kỳ lạ trong bố cục toàn cảnh, mà khi đi sâu tìm hiểu kiến trúc của các khu vực riêng biệt, thì hình như mỗi khu của Bắc Kinh cũng có những đặc điểm kỳ lạ. Thí dụ như việc phát hiện ra “tọa nhân tượng” (tượng người ngồi) tại khu công viên Cảnh Sơn.

Cảnh Sơn là khu công viên nằm đối diện với cửa Thần Vũ thuộc cửa Bắc của Tử Cấm Thành. Thời Nguyên thì đây là một gò đất nằm trong khu nội đô có tên là Thanh Sơn. Đến năm Vĩnh Lạc thứ 10 (1416) thuộc triều Minh, khi tiến hành xây dựng các cung điện, người ta đã mang các phế thải khi phá bỏ các thành lũy cũ của triều Nguyên cũng như các đất cát từ việc nạo vét các con sông bảo vệ Tử Cấm Thành, đổ vào đây, tạo thành một trái núi được gọi là Vạn Tuế sơn.

Với hàm ý dùng để trấn áp “vương khí” của triều Nguyên, nên núi này còn được gọi là Trấn Sơn. Theo truyền thuyết về hoàng cung, thì tại đây có tích chứa rất nhiều than, nên còn được gọi là Môi Sơn (núi than). Đến năm Thuận Trị thứ 12 triều Thanh (1655) Môi Sơn được đổi tên thành Cảnh Sơn.

Tại cuộc triển lãm trưng bày các thành tựu nghiên cứu diện mạo Bắc Kinh bằng viễn thám vào tháng 3/1987, Quỳ Trung Vũ, một chuyên gia về ảnh hồng ngoại viễn thám có gửi tới một tấm ảnh làm chấn động dư luận lúc bấy giờ: trên bức ảnh chụp từ vệ tinh bằng kỹ thuật tia hồng ngoại mặt bằng của khu công viên Cảnh Sơn (bao gồm quần thể kiến trúc đoạn từ phía bắc của Tử Cấm Thành trên trục đường Bắc Kinh và công viên Cảnh Sơn), hiện lên rõ ràng bức tượng một người đang ngồi xếp bằng tròn với đôi mắt khép hờ.

Bức tượng đặc biệt này được gọi là “Cảnh Sơn tọa tượng” hay còn gọi ngắn gọn là “nhân tượng”. Phần đầu của “nhân tượng” được tạo bởi quần thể kiến trúc Thọ Hoàng điện của công viên Cảnh Sơn, trong đó Đại Điện và Cung Môn tạo thành mắt, mũi và miệng. Khuôn mặt “nhân tượng” đang phảng phất mỉm cười. Phần lông mi được tạo bởi tổ hợp các hàng cây. Riêng bộ râu được tạo bởi rừng cây có hình tam giác cực kỳ đối xứng, mặc dù nó đã bị tường bao phía ngoài của Thọ Hoàng điện làm gián đoạn.

Qua việc phân tích rất cẩn thận và công phu, người ta còn nhận thấy những bức tường vây quanh 4 phía của Công viên Cảnh Sơn tạo thành khung của bức tượng tuân theo đúng “tỉ lệ vàng” 0.32 trong xây dựng. Nếu quả thật đây đúng là bức tượng người được tạo ra theo ý định trước, thì nó là bức tượng người được tạo ra lớn nhất thế giới.

Sau này đã có rất nhiều tấm ảnh chụp từ vệ tinh bằng những phương pháp khác nhau về diện mạo của khu vực. Và trên tất cả các tấm ảnh đó người ta đều thấy “nhân tượng” hiện ra rất rõ ràng.

Vậy thì bức tượng người ngồi Cảnh Sơn là tượng của ai? Qua quá trình nghiên cứu, Quỳ Trung Vũ phát hiện ra một điều bí mật. Ở đầu cực bắc trên tuyến đường trục của Cố Cung có ngôi điện Khâm An được xây dựng vào thời Vĩnh Lạc (triều Minh). Trong điện có thờ một bức tượng được gọi là tượng thủy thần Huyền Vũ đế. "Huyền" có nghĩa là "màu đen", “Vũ” được người xưa giải thích là “ô quy xác” (vỏ của con rùa đen).

Theo phong thủy thì “huyền vũ tại ngũ phương” là biểu thị của "bắc phương" (phương bắc), “tại ngũ hành trung” biểu thị cho “thủy” (nước). Vì ngôi điện này hầu như không bao giờ được mở cửa nên bức tượng và những đồ vật có từ thời Minh hầu như vẫn còn được bảo quản nguyên vẹn. Khi đối chiếu bức tượng Huyền Vũ đế trong Khâm An điện với “nhân tượng” thì rõ ràng hai bức tượng là rất giống nhau, chúng chỉ khác nhau về kích cỡ mà thôi. Vậy liệu tượng Huyền Vũ đế và tượng Cảnh Sơn có mối liên quan gì không? Phải chăng tượng Huyền Vũ đế là “bản mẫu thu nhỏ” để người ta tạo ra “nhân tượng khổng lồ”? Và tại sao “nhân tượng” lại xuất hiện tại Công viên Cảnh Sơn, nằm trên trục đường chính của Bắc Kinh?

Để giải đáp mối thắc mắc đó, Quỳ Trung Vũ đã tự mình bỏ công nghiên cứu và nhờ rất nhiều học giả có uy tín trong đó có Phổ Kiệt tiên sinh, một chuyên gia về thư tịch cổ, xin tư vấn để làm rõ về sự liên quan đó cũng như cho câu hỏi liệu rằng bức “nhân tượng” được tạo ra một cách có ý đồ kiến trúc hay là được hình thành do ngẫu nhiên? Nếu như “nhân tượng” được tạo ra là có ý đồ, thì chắc phải có tài liệu (bản vẽ, tranh vẽ hoặc văn bản...) nói về điều này. Nhưng đáng tiếc là cho tới nay người ta vẫn chưa tìm được bất kỳ tài liệu nào minh chứng cho điều này.

Một địa điểm xây dựng nữa của Bắc Kinh cũng mang tính kỳ bí không kém, đó là Di Hòa viên.

Di Hòa viên là một công viên nằm ở phía tây Bắc Kinh, diện tích khoảng 290 hécta, trong đó 3/4 là diện tích mặt nước. Đây là khu vui chơi giải trí nổi tiếng dành riêng cho hoàng gia của các triều đại Trung Hoa.

Lịch sử đã ghi nhận, khu công viên này được hình thành từ triều Kim (1115 - 1234). Tại đây các vị hoàng đế nhà Kim đã dựng lên vô số những hành cung nguy nga và những khu giải trí cực kỳ xa xỉ. Từ đó các triều đại tiếp nối nhau xây thêm nhiều công trình hoành tráng khác. Đến đời Vua Càn Long (1736-1796) nhà Thanh, quy mô khu công viên không những đã mở rộng một cách đáng kể, mà còn được xây thêm nhiều công trình mới, và đổi tên là Thanh Ý viên. Năm 1860 liên quân Anh - Pháp tấn công Bắc Kinh đã tràn vào đây cướp bóc, đốt phá khiến Thanh Ý viên tan hoang.

Năm 1888, Từ Hy Thái Hậu đã lấy 500 vạn lạng bạc vốn dĩ dùng để xây dựng hải quân, trùng tu lại Thanh Ý viên thành một công viên tráng lệ, và đổi tên thành Di Hòa viên (khu vườn di dưỡng tinh thần). Di Hòa viên mà ta thấy ngày nay chính là những gì được tạo ra từ lần trùng tu này.

Nổi bật ở chính khu trung tâm là Phật Hương các, một ngôi chùa nhiều tầng nguy nga lộng lẫy nằm trong khu Vạn Thọ sơn, nơi để Từ Hy niệm Phật. Dưới chân Vạn Thọ sơn là hồ Côn Minh bao la gợn sóng. Một bến thuyền có hình dáng là một chiếc thuyền làm bằng đá nhô ra mặt hồ, ngay dưới Phật Hương các là nơi đón du khách lên thuyền dạo trên hồ. Men theo bờ hồ là một dãy hành lang dài 728 mét gồm nhiều gian, mỗi gian được kiến trúc khác nhau với những hình vẽ vô cùng tinh xảo mang đậm tính nghệ thuật Trung Hoa... Giữa hồ Côn Minh là hòn đảo nhỏ được nối với bờ bằng một chiếc cầu vồng làm bằng đá gồm 77 nhịp có tên là Thập Thất Khổng kiều. Cho tới ngày nay, Di Hòa viên vẫn được coi là một trong những công viên đẹp nhất thế giới.

Di Hòa viên không những chỉ là một công viên đẹp, được coi là một kiệt tác về kiến trúc, mà người ta còn đồn rằng toàn bộ khuôn viên của Di Hòa viên đã được xây dựng theo bố cục rất chặt chẽ về mặt phong thủy thể hiện ý tưởng Phúc Lộc Thọ, theo một mật chỉ của Từ Hy Thái Hậu.

Đã có nhiều người bỏ công nghiên cứu để tìm hiểu bí mật ẩn chứa trong Di Hòa viên, nhất là tìm hiểu xem có thật Di Hòa viên có bố cục thể hiện ý tưởng Phúc Lộc Thọ hay không, và nếu có thì nó đã được thể hiện như thế nào.

Bước đột phá có tính chất quyết định để trả lời cho câu hỏi này là từ khi các nhà nghiên cứu có trong tay những bức ảnh chụp toàn cảnh Di Hòa viên từ vệ tinh bằng kỹ thuật có độ phân giải siêu cao và kỹ thuật chụp hồng ngoại. Khi những tấm ảnh này được công bố, các nhà nghiên cứu đã vô cùng kinh ngạc về bố cục kỳ lạ của Di Hòa viên.

Nhìn vào những tấm ảnh ta thấy ngay hồ Côn Minh có hình dáng là một quả đào lớn mà cuống của nó là con sông dẫn nước vào hồ qua cửa Tây Môn quan nằm ở góc phía bắc của Di Hòa viên. Con đê hẹp mà dài ở phía chếch mặt hồ tạo ra vết rãnh trên quả đào rất hoàn chỉnh. Dãy hành lang dùng làm đường đi lại men theo hồ Côn Minh ngay sát chân Vạn Thọ sơn thì giống như đôi xương cánh của một con dơi đang dang ra. Đường hành lang ở bờ bắc hồ Côn Minh thì rõ ràng là hình một cánh cung mà phần thâm nhập vào lòng hồ hình thành phần đầu của con dơi, phần nhô ra một cách đơn độc được dùng làm bến thuyền cho khách du ngoạn hồ Côn Minh chính là mõm của con dơi đó. Đường hành lang vươn dài sang hai phía tả hữu chính là đôi cánh dơi đang vươn ra. Đoạn hành lang ở phía đông và mái hiên nhà Ngư Tảo thâm nhập vào mặt nước và bởi đoạn hành lang ở phía tây tạo thành đôi móng chân trước của con dơi, còn núi Vạn Thọ sơn và cái hồ phía sau núi tạo thành thân của con dơi. Thập Thất Khổng kiều ở phía đối diện Vạn Thọ sơn thì đúng là chiếc cổ của một con rùa đang vươn dài, mà đầu của nó chính là hòn đảo nhỏ giữa hồ Côn Minh.

Vì trước đây không có được bức ảnh chụp toàn cảnh Di Hòa viên nên kiến trúc độc đáo của nó ít người nhận ra. Ngay cả Từ Hy Thái Hậu mặc dù đã lên tầng cao nhất của Phật Hương các trên đỉnh Vạn Thọ sơn thì cũng chỉ nhìn thấy một cách đại khái hình trái đào, cái đầu và cái cổ con rùa cũng như cái đầu và đôi móng con dơi. Những phần còn lại thì không thể nhìn thấy, nhất là phần thân con dơi do bị những kiến trúc khác che lấp.

Theo thuật phong thủy truyền thống Trung Hoa thì quả đào tượng trưng cho Lộc, con dơi tượng trưng cho Phúc, còn rùa tượng trưng cho Thọ. Như vậy cấu trúc tổng thể của Di Hòa viên ẩn trong nó cả 3 điều mà Từ Hy mong muốn là Phúc Lộc Thọ đã được thể hiện bằng những hình tượng tuyệt vời. Phải chăng chính cấu trúc này là điểm khác biệt cực kỳ đặc sắc mà không có ở bất cứ một công viên nào khác tại TQ cũng như trên thế giới.

Và tất cả những điều trên đã tạo nên một Bắc Kinh hiện đại, kỳ bí, thành phố kinh đô chủ nhà của Thế vận hội Olimpic lần thứ 29

Theo www.cand.com.vn

Bí mật trong việc xây dựng Quảng trường Thiên An Môn


8:15, 07/08/2008




Có rất nhiều những địa điểm nổi tiếng của Bắc Kinh sẽ diễn ra các cuộc thi đấu hoặc các lễ hội của Olympic. Trong số các địa điểm đó thì Quảng trường Thiên An môn sẽ là một trong những địa điểm hấp dẫn nhất, bởi nơi đây không những sẽ diễn ra những lễ hội được dự đoán là rất hoành tráng, mà còn bởi quảng trường xưa nay vẫn luôn được coi là vùng đất “địa linh” chứng kiến vô vàn những biến động lịch sử của dân tộc Trung Hoa.

Quảng trường Thiên An môn là quảng trường lớn nhất, trung tâm nhất của thủ đô Bắc Kinh. Hình thành từ triều Minh (1368-1644), ban đầu quảng trường được xây dựng theo hình chữ “đinh” (?), mà nét ngang trên đầu chính là đường Trường An, còn cổng phải và cổng trái của đường Trường An chính là hai đầu của nét ngang đó. Đến đời Thanh ở bên ngoài mỗi cổng xây thêm hai cổng nữa theo hướng đông tây tạo thành “Tam tọa môn” ở mỗi đầu đường Trường An. Nét “dọc” của chữ “đinh” chính là Thiên bộ lang (hành lang ngàn bước) theo hướng nam - bắc, còn phần cuối của nét “hất” là Trung Hoa môn ở phía bắc của Chính Dương môn.

Có thể nói do cấu trúc “kín cổng cao tường” lại được cảnh giới hết sức nghiêm ngặt, nên dưới hai triều Minh - Thanh, Thiên An môn được gọi một cách hình tượng là “Thiên nhai” (đường lên trời). Cho đến trước khi triều đình Mãn Thanh sụp đổ thì Quảng trường Thiên An môn luôn là một quảng trường bị “phong bế” (đóng kín), chỉ dành để tổ chức những lễ hội hoặc những sự kiện trọng đại riêng cho triều đình.

Với những người dân bình thường thì việc được đi vào quảng trường này “khó như lên trời”. Họ chỉ có duy nhất một cơ hội trong một năm: đó là vào đúng ngày trước tiết sương giáng (23/11) khi những tử tội được dẫn qua cửa phía trái đường Tràng An vào quảng trường để chờ hành quyết, thì họ mới được theo vào mà thôi

Quảng trường Thiên An Môn.

Sau cách mạng Tân Hợi (1911), Chu Khải Kiềm, Tổng trưởng Nội vụ trong Chính phủ Bắc Dương đã cho phá bỏ Thiên bộ lang, nhờ đó Thiên An môn trở nên thông thoáng với bên ngoài. Những thứ phá ra từ Thiên bộ lang được dùng vào việc xây dựng “Bắc Kinh đệ nhất công viên”, hay còn gọi là Công viên Trung ương, tức Công viên Trung Sơn hiện nay. Sự chỉnh sửa cũng giúp cho phía đông và phía tây của đường Tràng An chính thức được nối liền với nhau. Quảng trường Thiên An môn từ chỗ là “phong bế quảng trường” đã trở thành “khai phóng quảng trường”. Mọi người dân đều có thể qua lại mà không bị ngăn trở.

Ngày 1/10/1949 tại Quảng trường Thiên An môn, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã trịnh trọng tuyên bố nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Sự kiện trọng đại này khiến Quảng trường Thiên An môn trở thành mảnh đất thiêng của nước Trung Hoa mới, và do đó nó càng trở nên nổi tiếng. Vì thế ngay sau đó các cấp chính quyền cũng bắt đầu tiến hành các “chỉnh sửa” để quảng trường trở thành biểu trưng của một thời đại lịch sử mới.

Tam tọa môn ở hai đầu đông tây và tả, hữu môn ở hai đầu đường Tràng An bị dỡ bỏ. Đến năm 1955, bức tường màu đỏ ở hai đầu đông và tây được san phẳng khiến cho diện tích của quảng trường ngay lập tức được tăng lên gần 1 vạn mét vuông.

Những cuộc chỉnh sửa này khiến quảng trường không mang dáng chữ “đinh” nữa. Cuối năm 1955, chính quyền TP Bắc Kinh lập ra Ủy ban Quy hoạch đô thị, lấy việc cải tạo và xây dựng Quảng trường Thiên An môn làm nhiệm vụ trọng tâm. Để thực hiện công việc khó khăn này, các nhà chức trách Trung Quốc (TQ) đã mời các chuyên gia Liên Xô sang giúp đỡ. Nhờ đó chỉ một thời gian sau, Ủy ban đã đưa ra 11 phương án quy hoạch khác nhau đối với quảng trường Thiên An môn. Tuy nhiên tất cả các phương án trên đều không được thực thi.

Để chuẩn bị cho đại lễ Quốc khánh TQ lần thứ 10 năm 1959, tháng 8/1958, Hội nghị toàn thể BCH TW ĐCS TQ họp tại Bắc Đới Hà đã ra nghị quyết tiến hành tu sửa và chỉnh trang toàn diện quảng trường. Theo đó cùng với Quảng trường Thiên An môn sẽ có 10 công trình kiến trúc hoành tráng (gọi tắt là Thập đại kiến trúc) được xây dựng mới hoặc nâng cấp, với yêu cầu “mang tính thời đại và vĩnh cửu”.

Nghị quyết cũng chỉ rõ 10 công trình đó bao gồm 1 công trình sẵn có là Triển lãm Công nghiệp và 9 công trình phải xây dựng mới là Vạn nhân đại hội đường (sau đó được Mao Trạch Đông đổi tên thành Nhân dân đại hội đường, gọi tắt là Đại hội đường hoặc Đại lễ đường), Bảo tàng Cách mạng, Bảo tàng lịch sử, Quốc gia đại kịch viện, Nhà bảo tàng Quân đội, Triển lãm khoa học kỹ thuật, Triển lãm nghệ thuật, Cung Văn hóa dân tộc, Triển lãm Nông nghiệp. Trong đó Đại lễ đường là công trình chủ đạo với phòng họp đủ chỗ cho một vạn đại biểu cùng tham dự.

Khi bản Nghị quyết ra đời thì chỉ còn cách ngày lễ Quốc khánh lần thứ 10 chưa tới 400 ngày. Nên biết rằng để xây dựng trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York phải mất 7 năm, Trung tâm Hội nghị quốc tế tại Gèneve mất 8 năm, còn Nhà hát Sydney mất 14 năm, thì trong 400 ngày phải xác định vị trí, lập đồ án thiết kế và thi công xong một tổ hợp 10 công trình có tính vĩnh cửu, biểu trưng cho cả một quốc gia, xứng tầm quốc tế, tại trung tâm thủ đô, là điều xưa nay chưa từng có trên thế giới!

Hồi ký của Đào Tông Chấn, một trong những kiến trúc sư chịu trách nhiệm chính khâu thiết kế, cho biết: công trình “Thập đại kiến trúc” đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chu Ân Lai cùng với một tổ chuyên môn bao gồm hơn 30 các kiến trúc sư, công trình sư và các nhà phong thủy học nổi tiếng nhất TQ khi đó. Thủ tướng Chu Ân Lai đã nêu rõ ý tưởng thiết kế chung là “Chắt lọc và kết hợp một cách hài hòa những tinh hoa kiến trúc giữa truyền thống và hiện đại, giữa trong nước và quốc tế nhằm để lại sự hoàn hảo cho con cháu muôn đời”.

Theo như bản thiết kế lúc đầu, thì quảng trường có chiều rộng là 500 mét, chiều dài là 800 mét (theo đúng tỉ lệ vàng 5/8 của thuật phong thủy). Thật chính xác ra thì chiều dài của quảng trường là 880, tức là gồm hai con số 8. Như vậy diện tích của Quảng trường Thiên An môn lớn gấp 5 lần quảng trường Trung tâm Paris, lớn gấp 4,5 lần Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva.

Một hôm khi ủy ban đang họp để quyết định đồ án thiết kế thì Tân Nghị, một cán bộ cao cấp của quân đội, người được giới thiệu là sẽ phụ trách việc duyệt binh ngày lễ Quốc khánh, tới thăm và đưa ra 3 yêu cầu. Một là không được tạo ra bất kỳ ranh giới nào giữa quảng trường và đường Tràng An, hai là bề mặt quảng trường phải chịu được trọng lượng của hai xe tăng, mỗi xe 60 tấn, song hành. Ba là không gian giữa đường và quảng trường phải “liền thành một khối” để không gây cản trở tới việc diễu hành của quần chúng nhân dân cũng như của các phương tiện khác.

Điều này có nghĩa là phải phá bỏ toàn bộ tòa đôi Cổ tháp ở giữa cửa Tây Đơn và cửa Lục Bộ cũng như hệ thống dây dẫn dùng cho xe điện bánh hơi chạy qua quảng trường. Như vậy thì việc xây dựng một đường ngầm phía dưới quảng trường cho xe điện chạy qua là điều hiển nhiên. Phải nhiều năm sau người ta mới biết được ý đồ thực sự của yêu cầu này. Đó là nhằm chuẩn bị nếu có sự bất trắc xảy ra, thì quảng trường có thể lập tức trở thành một sân bay dã chiến, còn đường hầm phía dưới sẽ biến thành hầm trú ẩn.

Vì “Thập đại kiến trúc” sẽ hiện diện trong phạm vi quảng trường, cho nên phương án thiết kế phải đặc biệt lưu ý tới bố cục toàn thể và ảnh hưởng giữa các khối kiến trúc với nhau. Cũng theo Đào Tông Chấn, sau khi bàn bạc, các kỹ sư thiết kế nhận thấy độ cao của các công trình kiến trúc xung quanh chắc chắn sẽ thấp hơn các công trình kiến trúc dọc theo đường trung tâm quảng trường. Nếu cứ nghiêm ngặt tuân theo yêu cầu “liền một khối”, thì quảng trường sẽ là một quần thể kiến trúc khô khan, cứng nhắc và trống trải.

Không những thế phần bề mặt của quảng trường được gia cố bằng các vật liệu cứng sẽ chịu “hiệu ứng bức xạ nhiệt” khiến nhiệt độ của vùng quảng trường tăng lên vào mùa hè, và sẽ giảm vào mùa đông. Vì vậy các kỹ sư thiết kế đã cố gắng dùng mọi biện pháp để có thể thu nhỏ diện tích của phần mặt bằng. Họ đã lấy hai đại lộ chạy theo hướng bắc - nam của của phía nam Công viên Trung Sơn và Cung Văn hóa Nhân dân làm ranh giới để cho phía trong của con đường hòa với mặt bằng của quảng trường, còn phía bên ngoài của đường thì được làm thành đường đi và hàng rào cây xanh.

Mặt bằng của quảng trường còn được rộng thêm với việc mở rộng đường Tràng An lên tới 180 mét và do đó diện tích phần trung tâm của cả quảng trường đạt cỡ 14 ha. Trong bản thiết kế ban đầu thì Đại lễ đường, Bảo tàng Cách mạng ở về một bên quảng trường, đối diện ở phía bên kia sẽ là Quốc gia đại kịch viện và Bảo tàng lịch sử. Cả bốn “đại kiến trúc” này sẽ chiếm diện tích hoàn toàn giống nhau là 150 m x 220m. Nếu so sánh về tỉ lệ thì chúng sẽ dài theo hướng đông - tây hướng ra đường Tràng An, hẹp theo hướng bắc - nam hướng vào quảng trường. Cách bố trí này sẽ khiến cho không gian phía nam của quảng trường trở nên thoáng đãng.

Tuy vậy, trong bản thiết kế sau đó các kiến trúc sư đã đưa Quốc gia đại kịch viện ra bên ngoài quảng trường. Phía tây của quảng trường sẽ là Đại lễ đường, phía đông là Bảo tàng lịch sử và Bảo tàng cách mạng.

Cuối cùng, vị trí và kích cỡ của công trình then chốt nhất là Đại lễ đường vẫn không có được sự thống nhất giữa Bộ Ngoại giao và chính quyền thành phố Bắc Kinh cùng một số các bộ, ngành khác. Thí dụ lúc đầu Đại lễ đường chỉ có phòng họp chứa 1 vạn người, sau đó Bộ Ngoại giao yêu cầu phải có thêm một phòng tiếp tân để có thể tổ chức các bữa tiệc ngoại giao cho 5 nghìn người. Quốc hội (tức Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc) cũng yêu cầu phải có Văn phòng của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Thấy rõ được khó khăn này, Thủ tướng Chu Ân Lai gợi ý: Vị trí của Đại lễ đường nên nằm ở phía tây quảng truờng (nhìn từ lầu Thiên An môn). Đối diện với Đại lễ đường ở phía tây sẽ là Bảo tàng lịch sử và Bảo tàng cách mạng, hai bảo tàng này nên tạo thành một khối.

Ý tưởng này sau đó đã biến thành hiện thực mà mọi người được thấy như ngày nay. Nó được giới chuyên môn đánh giá rất cao vì sự hài hòa trong kiến trúc, còn về mặt phong thủy thì đó chính là nguyên tắc “tả tổ hữu xã” (phía trái là tổ tông, phía phải là con cháu) theo đúng tôn ti trật tự của truyền thống văn hóa phương Đông.

Còn riêng phòng họp của Đại lễ đường, có thể xây dựng theo hình móng ngựa hoặc hình êlíp vì đây là cấu trúc đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện.

Nhưng khi tiến hành phân tích một cách kỹ lưỡng, Đào Tông Chấn phát hiện ra rằng với một phòng họp có 1 vạn người cùng tham dự có hình êlip hoặc hình móng ngựa, thì người ở vị trí xa nhất sẽ cách đoàn chủ tịch cỡ 100 mét. Hơn nữa để chứa được 1 vạn đại biểu thì tất nhiên phải làm nhiều tầng lửng, sẽ dẫn tới người nọ che khuất tầm nhìn của người kia. Không những thế vấn đề âm thanh trong phòng cũng rất khó giải quyết.

Sau nhiều lần trăn trở tìm các phương án nhằm thỏa mãn tối đa các yêu cầu, Đào Tông Chấn và cộng sự quyết định lập thiết kế cho Đại lễ đường có kích thước 270m x 210 m, tức là diện tích so với thiết kế ban đầu tăng gấp 2,5 lần. Sau đó kích thước này được điều chỉnh lần cuối cùng là 336m x 206m. Còn phòng họp vạn người được thiết kế có hình cái quạt giấy.

Theo thiết kế này thì người ngồi nơi xa nhất cũng chỉ cách chủ tịch đoàn tối đa là 60 mét, và chỉ cần làm hai tầng lửng là đủ. Các mặt kỹ thuật khác cũng đạt tiêu chuẩn tối đa. Phương án thiết kế này sau đó đã được duyệt. Theo Đào Tông Chấn và các cộng sự thì điều này chứng tỏ các vị lãnh đạo đã rất tôn trọng ý kiến của các kiến trúc sư.

Khó khăn cơ bản được giải quyết, và cuối cùng sau gần hai tháng các bản thiết kế của “Thập đại kiến trúc” đã được phê duyệt. Cuối tháng 10/1958 bắt đầu thi công Đại lễ đường và các công trình khác. Đến đầu tháng 9/1959 thì tất cả các công trình đều hoàn thành. Đây đúng là một kỳ tích trong ngành xây dựng, không những của TQ mà cũng là của thế giới. Quảng trường Thiên An môn mà chúng ta thấy ngày nay, về cơ bản là có được từ sau lần chỉnh sửa này.

Ngày 1/10/1959 đại lễ mừng 10 năm ngày thành lập nước CHND Trung Hoa đã diễn ra vô cùng tưng bừng. Kể từ đó đến nay Quảng trường Thiên An môn luôn là nơi diễn ra các sự kiện trọng đại nhất, hoành tráng nhất của TQ

Theo www.CAND.com.vn

Thứ Hai, 25 tháng 8, 2008

Văn hóa còi xe' ở Hà Nội

Đã không ít lần tôi "vô tình" đi bên cạnh hay phía trước một chiếc xe tải và đột nhiên giật bắn người vì bị một thứ âm thanh có âm lượng cỡ lớn dội vào tai. Tôi tưởng như màng tai mình bị rách toạc và không khỏi choáng váng.

Có lần vô tình tôi đọc được một bài trên blog của Joe - anh chàng Tây siêu tiếng Việt viết về "Văn hóa sử dụng còi" của người Việt Nam mình, cụ thể là những người đang tham gia giao thông hàng ngày tại Hà Nội. Đúng là "Văn hóa còi xe" của người Việt cần phải được "cải tạo" thật.

Như anh chàng "Dâu" đã nói thì có những người sử dụng còi xe rất "không đúng lúc đúng chỗ". Có những người đi cách người phía trước mình đến cả vài mét đã ấn còi inh ỏi, có người thì lại sát sàn sạt người phía trước rồi mới vội vã ấn còi và quay lại... chửi. Thật không thể hiểu nổi.

Đó là chưa kể đến giai đoạn đợi đèn đỏ cũng có nhiều điều phải nói. Lẽ ra là đèn vàng thì "được vượt" dù đằng trước không có bóng cảnh sát nhưng lại có người dừng lại chắn đường cho nên cách duy nhất để rẽ đám đông vượt lên là bấm còi... liên thanh.

Tắc đường ở Hà Nội. Ảnh: Hoàng Hà.
Tắc đường ở Hà Nội. Ảnh: Hoàng Hà.

Để góp phần thêm vào phong cách sử dụng còi "độc đáo" này là các bác đi môtô đứng ở giữa dòng người hoặc tít dưới cuối hàng vẫn thường hay bày tỏ sự sốt ruột của mình bằng... còi khi đồng hồ báo hiệu mới chỉ ở những giây thứ 5 trước khi chuyển sang đèn xanh. Tuy nhiên, "lỗi văn hóa" này là không thể kiểm soát được mà phải do nhận thức và ý thức văn hóa của mỗi người khi tham gia giao thông.

Giả như, ở trường hợp "xấu nhất", người dân của chúng ta không thể từ bỏ được thói quen sử dụng còi "vô tội vạ" này thì bất quá cũng chỉ khiến người đi đường bực dọc đôi chút. Điều mà tôi muốn nêu ra ở đây đó là "văn hóa còi" của những người lái xe tải. Thành thực mà nói, đây là điều mà tôi đã bức xúc từ rất lâu nhưng mãi tới hôm nay mới quyết định gửi bài tới VnExpress để chia sẻ cùng mọi người và mong có một giải pháp thực sự cho vấn đề tưởng như là nhỏ này.

Những "lỗi văn hóa còi" mà tôi đã nêu ra ở trên đều xuất phát từ những người điều khiển môtô, với mức âm lượng còi còn có thể chấp nhận được mặc dù cũng gây không ít khó chịu đối với mọi người xung quanh khi cùng tham gia giao thông. Trong khi đó, "lỗi văn hóa còi" của những người lái xe tải không đơn thuần chỉ là sự khó chịu khi đi đường mà còn gây tác hại đối với những người đi trên đường.

Đã không ít lần tôi "vô tình" đi bên cạnh hay phía trước một chiếc xe tải và đột nhiên giật bắn người vì bị một thứ âm thanh có âm lượng cỡ lớn dội vào tai. Đó là khi chiếc còi hơi xe tải được sử dụng để xin đường. Lúc đi quá gần những chiếc xe tải kiểu như vậy, tôi tưởng như màng tai mình bị rách toạc và không khỏi choáng váng.

Tôi không hiểu tại sao những chiếc xe tải này lại có thể ung dung sử dụng còi hơi âm lượng lớn khi đang tham gia giao thông trong đô thị, nhất là tại Hà Nội - nơi mà mật độ người đi lại trên đường khá đông nên khoảng cách giữa các phương tiện khá hẹp, mà không bị xử phạt gì.

Nếu bạn là người tham gia điều khiển phương tiện giao thông thì tôi chắc rằng bạn đã học qua luật và biết rằng Luật Giao thông đường bộ quy định cấm sử dụng còi hơi trong thành phố. Hằng ngày, có biết bao chủ phương tiện giao thông bị xử phạt vì vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm, dừng đỗ sai làn đường, đi vào đường một chiều... nhưng dường như chưa lái xe nào bị phạt vì sử dụng còi hơi ở nội thành.

Thiết nghĩ, đây không phải là một vấn đề nhỏ, chỉ dừng lại ở một "lỗi văn hóa còi" mà còn là sự an toàn cho những người tham gia giao thông. Nếu những chiếc còi hơi âm lượng lớn vẫn còn được ung dung sử dụng trên đường phố đô thị thì sẽ còn không biết bao nhiêu người tham gia giao thông bị "tra tấn" và có thể bị ảnh hưởng xấu đến thính giác. Bầu không khí Thủ đô không chỉ bị ô nhiễm vì khói bụi mà còn trầm trọng thêm vì ô nhiễm âm thanh.

Tôi đã từng có dịp vào công tác tại Huế và cảm thấy rất ấn tượng với cố đô này. Ngoài những con người với ý thức tham gia giao thông rất tốt, Huế còn áp dụng nghiêm ngặt việc cấm lái xe tải sử dụng còi hơi trong thành phố.

Ngay tại đầu mỗi con đường dẫn vào nội thành đều có đặt biển "Cấm sử dụng còi hơi trong thành phố" và lái xe cũng thực hiện rất nghiêm túc quy định này. Do vậy, khi xe tải bắt đầu tiến vào nội thành, còi hơi sử dụng cho đường cao tốc được chuyển sang còi xe bình thường với âm lượng bé hơn và tuyệt đối an toàn cho những người tham gia giao thông xung quanh.

Như vậy, để Thủ đô của chúng ta ngày càng văn minh hơn thì những điều nhỏ nhất cũng phải được giải quyết triệt để và nghiêm khắc, nhất là khi điều đó không đơn thuần chỉ là gây phiền phức, khó chịu cho mọi người mà còn có khả năng gây tác hại. Mà một khi điều nhỏ có thể gây tác hại thì bản thân nó đã không còn là "chuyện nhỏ" nữa.

Tôi hy vọng rằng chia sẻ này cùng với ý kiến đóng góp của đông đảo bạn đọc VnExpresssẽ mang lại thay đổi nào đó đối với vấn đề "Văn hóa còi xe" này. Hy vọng một ngày rất gần đây thôi, khi ra đường sẽ không còn ai phải "giật bắn mình" vì những chiếc còi được dùng "không đúng chỗ".

Theo www.vnexpress.net

Văn hóa còi xe' ở Hà Nội

Đã không ít lần tôi "vô tình" đi bên cạnh hay phía trước một chiếc xe tải và đột nhiên giật bắn người vì bị một thứ âm thanh có âm lượng cỡ lớn dội vào tai. Tôi tưởng như màng tai mình bị rách toạc và không khỏi choáng váng.
> Mốt chơi còi hạng nặng trên xe tuổi teen

Có lần vô tình tôi đọc được một bài trên blog của Joe - anh chàng Tây siêu tiếng Việt viết về "Văn hóa sử dụng còi" của người Việt Nam mình, cụ thể là những người đang tham gia giao thông hàng ngày tại Hà Nội. Đúng là "Văn hóa còi xe" của người Việt cần phải được "cải tạo" thật.

Như anh chàng "Dâu" đã nói thì có những người sử dụng còi xe rất "không đúng lúc đúng chỗ". Có những người đi cách người phía trước mình đến cả vài mét đã ấn còi inh ỏi, có người thì lại sát sàn sạt người phía trước rồi mới vội vã ấn còi và quay lại... chửi. Thật không thể hiểu nổi.

Đó là chưa kể đến giai đoạn đợi đèn đỏ cũng có nhiều điều phải nói. Lẽ ra là đèn vàng thì "được vượt" dù đằng trước không có bóng cảnh sát nhưng lại có người dừng lại chắn đường cho nên cách duy nhất để rẽ đám đông vượt lên là bấm còi... liên thanh.

Tắc đường ở Hà Nội. Ảnh: Hoàng Hà.
Tắc đường ở Hà Nội. Ảnh: Hoàng Hà.

Để góp phần thêm vào phong cách sử dụng còi "độc đáo" này là các bác đi môtô đứng ở giữa dòng người hoặc tít dưới cuối hàng vẫn thường hay bày tỏ sự sốt ruột của mình bằng... còi khi đồng hồ báo hiệu mới chỉ ở những giây thứ 5 trước khi chuyển sang đèn xanh. Tuy nhiên, "lỗi văn hóa" này là không thể kiểm soát được mà phải do nhận thức và ý thức văn hóa của mỗi người khi tham gia giao thông.

Giả như, ở trường hợp "xấu nhất", người dân của chúng ta không thể từ bỏ được thói quen sử dụng còi "vô tội vạ" này thì bất quá cũng chỉ khiến người đi đường bực dọc đôi chút. Điều mà tôi muốn nêu ra ở đây đó là "văn hóa còi" của những người lái xe tải. Thành thực mà nói, đây là điều mà tôi đã bức xúc từ rất lâu nhưng mãi tới hôm nay mới quyết định gửi bài tới VnExpress để chia sẻ cùng mọi người và mong có một giải pháp thực sự cho vấn đề tưởng như là nhỏ này.

Những "lỗi văn hóa còi" mà tôi đã nêu ra ở trên đều xuất phát từ những người điều khiển môtô, với mức âm lượng còi còn có thể chấp nhận được mặc dù cũng gây không ít khó chịu đối với mọi người xung quanh khi cùng tham gia giao thông. Trong khi đó, "lỗi văn hóa còi" của những người lái xe tải không đơn thuần chỉ là sự khó chịu khi đi đường mà còn gây tác hại đối với những người đi trên đường.

Đã không ít lần tôi "vô tình" đi bên cạnh hay phía trước một chiếc xe tải và đột nhiên giật bắn người vì bị một thứ âm thanh có âm lượng cỡ lớn dội vào tai. Đó là khi chiếc còi hơi xe tải được sử dụng để xin đường. Lúc đi quá gần những chiếc xe tải kiểu như vậy, tôi tưởng như màng tai mình bị rách toạc và không khỏi choáng váng.

Tôi không hiểu tại sao những chiếc xe tải này lại có thể ung dung sử dụng còi hơi âm lượng lớn khi đang tham gia giao thông trong đô thị, nhất là tại Hà Nội - nơi mà mật độ người đi lại trên đường khá đông nên khoảng cách giữa các phương tiện khá hẹp, mà không bị xử phạt gì.

Nếu bạn là người tham gia điều khiển phương tiện giao thông thì tôi chắc rằng bạn đã học qua luật và biết rằng Luật Giao thông đường bộ quy định cấm sử dụng còi hơi trong thành phố. Hằng ngày, có biết bao chủ phương tiện giao thông bị xử phạt vì vượt đèn đỏ, không đội mũ bảo hiểm, dừng đỗ sai làn đường, đi vào đường một chiều... nhưng dường như chưa lái xe nào bị phạt vì sử dụng còi hơi ở nội thành.

Thiết nghĩ, đây không phải là một vấn đề nhỏ, chỉ dừng lại ở một "lỗi văn hóa còi" mà còn là sự an toàn cho những người tham gia giao thông. Nếu những chiếc còi hơi âm lượng lớn vẫn còn được ung dung sử dụng trên đường phố đô thị thì sẽ còn không biết bao nhiêu người tham gia giao thông bị "tra tấn" và có thể bị ảnh hưởng xấu đến thính giác. Bầu không khí Thủ đô không chỉ bị ô nhiễm vì khói bụi mà còn trầm trọng thêm vì ô nhiễm âm thanh.

Tôi đã từng có dịp vào công tác tại Huế và cảm thấy rất ấn tượng với cố đô này. Ngoài những con người với ý thức tham gia giao thông rất tốt, Huế còn áp dụng nghiêm ngặt việc cấm lái xe tải sử dụng còi hơi trong thành phố.

Ngay tại đầu mỗi con đường dẫn vào nội thành đều có đặt biển "Cấm sử dụng còi hơi trong thành phố" và lái xe cũng thực hiện rất nghiêm túc quy định này. Do vậy, khi xe tải bắt đầu tiến vào nội thành, còi hơi sử dụng cho đường cao tốc được chuyển sang còi xe bình thường với âm lượng bé hơn và tuyệt đối an toàn cho những người tham gia giao thông xung quanh.

Như vậy, để Thủ đô của chúng ta ngày càng văn minh hơn thì những điều nhỏ nhất cũng phải được giải quyết triệt để và nghiêm khắc, nhất là khi điều đó không đơn thuần chỉ là gây phiền phức, khó chịu cho mọi người mà còn có khả năng gây tác hại. Mà một khi điều nhỏ có thể gây tác hại thì bản thân nó đã không còn là "chuyện nhỏ" nữa.

Tôi hy vọng rằng chia sẻ này cùng với ý kiến đóng góp của đông đảo bạn đọc VnExpresssẽ mang lại thay đổi nào đó đối với vấn đề "Văn hóa còi xe" này. Hy vọng một ngày rất gần đây thôi, khi ra đường sẽ không còn ai phải "giật bắn mình" vì những chiếc còi được dùng "không đúng chỗ".

Theo www.vnexpress.net

Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2008

Hoa sắt cầu thang theo phong cách cổ điển PDF In E-mail

14/08/2008
Bạn đang đau đầu về việc trang trí cho chiếc cầu thang của mình và phân vân không biết nên chọn loại mẫu thiết kế hoa sắt tay vịn cầu thang nào. Hãy giảm bớt lo lắng bằng cách tham khảo những mẫu thiết kế mà chúng tôi đưa ra dưới đây.
Mẫu 1: Kalinka

Văn học dân gian Nga là nguồn cảm hứng cho những hàng lan can bằng gang đúc này. Những hoạ tiết cầu kỳ được hoàn thiện bằng sơn bóng ánh vàng để tăng thêm vẻ sang trọng.
Mẫu 2: Hương đồng nội.

Chiếc cầu thang cong bằng gỗ này trông sang trọng và xa hoa hơn với hàng lan can hình hoa lá. Một trụ giữa cầu thang bằng đồng đỏ chạm hình quả dứa càng làm tăng thêm nét xa hoa. Hoàn thiện bằng sáp để giữ cho thép lan can được xanh bóng và bền lâu.
Mẫu 3: Phong cách hiệp sỹ
Một phong cách cổ điển. Tay vịn bằng đồng thau, những hoạ tiết hoa hồng cách điệu và những chiếc chân đế sang trọng. Hoàn thiện bằng dầu bóng. Rất thích hợp với cầu thang rộng và có chiếu nghỉ lớn.
Mẫu 4. Hoài niệm

Mẫu sang trọng và cầu kỳ nhất trong các mẫu được giới thiệu ở đây. Sử dụng thép tinh luyện để có được chất lượng tốt nhất. Các hoa văn được xử lý cầu kỳ và tinh xảo. Phù hợp với cầu thang gỗ hoặc mặt bậc lát gỗ.

Mẫu 5: Medusa
Tay vịn bằng đồng thau xử lý bóng là điểm nhấn của mẫu này. Nhưng các chi tiết còn lại cũng được xử lý khá đắt. Trụ hình rắn cuộn, các đầu thép nối xoắn bằng tay, tất cả tập hợp lại để tạo nên một bộ lan can đầy cá tính.

Theo www.tuvankientruc.com.vn

Người Việt "thiếu tự ái, thừa tự trọng"

Có thể bắt đầu ngay với câu nói "thừa tự ái, thiếu tự trọng" để mô tả tính cách cư xử của nhiều người Việt" - những chuyện kể của một độc giả Tuần Việt Nam ghi nhặt về một số cách hành xử của người Việt.


Hồi đầu năm tôi đi công tác tại Nhật, khi làm thủ tục xuất cảnh chuẩn bị về lại VN tại Sân bay, tôi thấy 1 người đàn ông châu Á vô tư xách hành lý chen ngang vị trí thứ 2 của hàng chờ có hàng chục người.

Bị an ninh nhắc nhở, yêu cầu đứng xếp vào cuối hàng, anh ta làm theo 1 cách rất lưỡng lự, vô duyên trước ánh mắt của nhiều người nước ngoài. Khi về đến VN, tôi đứng gần hàng chờ của anh ta để làm thủ tục nhập cảnh, tôi thấy nhân viên an ninh gọi tên tôi biết anh ta là người Việt Nam.

Tuần trước, tôi cùng vợ và con ra Hà Nội thăm gia đình, khi vợ tôi bế con ngồi ghế gần đó đợi, còn tôi đang chờ làm thủ tục đăng ký lên máy bay tôi bị hai cô gái ăn mặc khá thời trang chen ngang khi tôi đứng chờ, sau tôi là 2 vợ chồng người châu Âu, có vẻ là khách du lịch.

Nhìn ngoại hình tôi có vẻ không giống người Việt, hai cô gái rất vô tư nhìn nói chuyện với nhau về thành tích chen ngang khi sếp hàng của 1 trong hai cô tại Singapore. Câu chuyện của họ nói về việc "tao chen ngang 1 thằng Singapore lúc làm thủ tục, cái thằng chó đấy nó cứ nhìn đểu mình khó chịu, nói gì đó. Nhưng tao cứ kệ mẹ nó, coi như chả hiểu gì".

Các bài viết liên quan

Cuộc trình diễn vẻ đẹp tâm hồn quốc gia

Nâng hàm lượng văn hoá trong ngoại giao

Ngoại giao văn hoá và hình ảnh người Việt xấu xí

"Mảnh đất ngoại giao văn hoá mới chỉ được xới lên"

Ngoại giao "phở" lại xứ sở của phở

Đến lúc này thì tôi thấy rằng, mình chẳng cần phải ga lăng làm gì với nhưng người như vậy & nhắc nhở "hai cô vui lòng xếp vào hàng chờ". Lúc đó họ mới nhận ra tôi cũng là người Việt & tỏ vẻ thiếu tôn trọng rồi nói khẽ với nhau, đủ để tôi nghe thấy 2 từ "Khốn nạn" rồi nhổ toẹt bã kẹo cao su xuống sàn nhà.

Chiều nay, đi làm về sớm, tôi nhường xe lại cho vợ & đón xe buýt về cùng một người bạn Nhật Bản. Trên đường về, xe đón thêm khách, xe hết chỗ, vài người phải đứng, trong đó có 1 phụ nữ khoảng 30 tuổi có vẻ là công chức.

Tôi đứng dậy và mời chị ta ngồi vào chỗ tôi. Chị ta nhìn tôi, không cười, không thể hiện bất cứ trạng thái gì trên khuôn mặt, lẳng lặng ngồi xuống ghế rồi ngoảnh mặt đi! Anh bạn người Nhật cùng đi nhìn tôi mỉm cười và lắc đầu.

Đó là 3 ví dụ cho hàng trăm lần tôi có dịp chứng kiến, chẳng cần phân tích kỹ chúng ta cũng thấy hình ảnh người Việt có thể để lại ấn tượng gì cho người nước ngoài. Thậm chí, ngay cho những người Việt còn lại chưa bị "thừa tự ái, thiếu tự trọng".

Theo www.tuantintuc.net

Chuyện người Việt xấu xí...

1. "Chạy cho kịp giờ"


Một lần đèn đỏ, phía bên kia đường vắng không ai qua, mọi người liền vượt đèn, mỗi tôiđứng lại, thế là họ quay lại nhìn tôi như thể nhìn người ngoài hành tinh. Tất nhiên là tôi không thấy xấu hổ, người nên xấu hổ là những người đã vượt đèn đỏ kia - họ vừa bị "mù màu" vừa bị hổng kiến thức nữa.

Một đứa bé được ba mẹ chở, đến đèn đỏ mọi người cùng vượt. Bé hỏi "sao đèn đỏ mọi người lại chạy, cô giáo dạy đèn xanh mới được đi cơ mà". Ba mẹ trả lời: "chạy cho kịp giờ ". Với cách nghĩ đó, sau này bé cũng sẽ "vượt đèn cho kịp giờ ". Lại một thế hệ nữa đi theo thói quen xấu.

2. "Xin lỗi, người Việt Nam toàn thế"

Ngay trong sáng nay thôi khi tôi dừng xe theo trình tự để đổ xăng, lúc đó cây xăng rất đông và ai cũng nhẫn nại chờ đợi đến lượt mình. Khi một người vừa rời đi thì có một cậu thanh niên vượt lên đổ ngay trước mặt tôi, nhanh chóng yêu cầu người bán hàng đổ trước.

Người bán hàng cũng không cần xem xét hành động của anh ta và cứ đổ cho anh ta trước. Tôi nói với người bán hàng mình đã đến trước và đề nghị không đổ cho người loi choi đó, người bán hàng không nói gì, còn cậu thanh niên kia bảo: " Xin lỗi! Người Việt Nam toàn thế" rồi bỏ đi trước sự ngơ ngác của bao người.

Vậy đấy, người Việt ta rất xấu và nếu chúng ta mỗi nguời hàng ngày không tự ý thức rèn luyện, e rằng thế hệ sau sẽ ảnh hưởng bởi hiệu ứng lan truyền, thấm lâu và chính chúng ta sẽ chịu hậu quả " gieo gió thì gặt bão".


3. Miễn xin lỗi

Chuyện vô ý thức trong nếp sống hàng ngày tôi thường xuyên gặp. Chẳng nói đâu xa, mỗi buổi sáng đi tập thể dục tại lớp thể dục thẩm mỹ của trung tâm thể dục thể thao Quận, tôi vẫn thấy những chị đi làm đẹp cơ thể mình chen ngang một cách vô lối, họ đến muộn nhưng vô tư đứng trước mặt người khác và lờ đi như không có ai đứng xung quanh, cho dù khoảng cách giữa mọi người thường là 1sải tay để tránh va, đá vào người khác và cũng tỏ ra bình thường khi dang tay vả ngang mặt người khác (không cần xin lỗi).

Thiết nghĩ, nếu nền giáo dục của ta chưa dạy được ý thức con người (ý thức phải tự tích luỹ và vận dụng) thì các phóng viên nhà đài có thể làm chương trình về ý thức công dân và dành khoảng 5 đến 10 phút và nhà đài có thể phát trong chương trình nào đó để phổ biến ý thức trong cộng đồng.

4. Đám đông

Mỗi lần đi ngang qua 1 vụ đụng xe, cả 2 bên cùng chửi nhau ỏm tỏi, rồi mọi người hiếu kỳ đứng lại xem làm kẹt xe. Không biết họ đã để lãng phí mất bao nhiêu thời gian vì chuyện đó.

Một lần, cô dạy văn của tôi kể chuyện, ngày xưa thời đánh Mỹ ở Sài Gòn, một trái bom nổ lên, không có thương vong, mọi người hiếu kỳ bu lại xem. Đến trái thứ 2 phát nổ, cả trăm người đó chết hết. Tai hại thật.


5. Chỉ trẻ con mới cần học đạo đức?

Một lần tôi leo Fansipan cùng một nhóm bạn trong đó có một anh đi du học Hàn Quốc về. Ngay khi mới bắt đầu vào rừng, khi có người vứt cái vỏ chai nước đã uống hết ra đường, anh nhặt lên và nói là chai nước và các loại túi ni-lon sẽ mất rất nhiều thời gian để phân huỷ, vì vậy không nên vứt chúng bừa bãi mà chờ khi có thùng rác mới cho vào.

Tôi nghĩ, mỗi chúng ta cũng nên như anh bạn kia, biết hướng dẫn cho người khác có ý thức hơn không chỉ về việc bảo vệ môi trường, biết xếp hàng, không lãng phí trong bữa tiệc đứng mà còn cả ý thức cư xử văn minh.

Tôi cũng mong ngành giáo dục quan tâm hơn về vấn đề này hơn nữa. Khi còn là học sinh cấp 1, tôi có được học môn Đạo đức và đã có nhưng bài học thật bổ ích, nhưng sau đó thì chúng ta không có nhưng môn tương tự cho lứa tuổi lớn hơn.

Ngay cả khi học đại học, khi học môn Luật đại cương tôi chỉ được học các điều luật, các chế tài xử phạt, chứ không thấy được học về ý thức chấp hành luật. Phải chăng Bộ giáo dục cho rằng chỉ có trẻ con mới cần học môn đạo đức?

Theo www.tuantintuc.net

Nhiều người Việt "thừa tự ái, thiếu tự trọng"

19/08/2008 11:18 (GMT + 7)
Có thể bắt đầu ngay với câu nói "thừa tự ái, thiếu tự trọng" để mô tả tính cách cư xử của nhiều người Việt" - những chuyện kể của một độc giả Tuần Việt Nam ghi nhặt về một số cách hành xử của người Việt.

Ảnh minh họa

Hồi đầu năm tôi đi công tác tại Nhật, khi làm thủ tục xuất cảnh chuẩn bị về lại VN tại Sân bay, tôi thấy 1 người đàn ông châu Á vô tư xách hành lý chen ngang vị trí thứ 2 của hàng chờ có hàng chục người.

Bị an ninh nhắc nhở, yêu cầu đứng xếp vào cuối hàng, anh ta làm theo 1 cách rất lưỡng lự, vô duyên trước ánh mắt của nhiều người nước ngoài. Khi về đến VN, tôi đứng gần hàng chờ của anh ta để làm thủ tục nhập cảnh, tôi thấy nhân viên an ninh gọi tên tôi biết anh ta là người Việt Nam.

Tuần trước, tôi cùng vợ và con ra Hà Nội thăm gia đình, khi vợ tôi bế con ngồi ghế gần đó đợi, còn tôi đang chờ làm thủ tục đăng ký lên máy bay tôi bị hai cô gái ăn mặc khá thời trang chen ngang khi tôi đứng chờ, sau tôi là 2 vợ chồng người châu Âu, có vẻ là khách du lịch.

Nhìn ngoại hình tôi có vẻ không giống người Việt, hai cô gái rất vô tư nhìn nói chuyện với nhau về thành tích chen ngang khi sếp hàng của 1 trong hai cô tại Singapore. Câu chuyện của họ nói về việc "tao chen ngang 1 thằng Singapore lúc làm thủ tục, cái thằng chó đấy nó cứ nhìn đểu mình khó chịu, nói gì đó. Nhưng tao cứ kệ mẹ nó, coi như chả hiểu gì".

Các bài viết liên quan

Cuộc trình diễn vẻ đẹp tâm hồn quốc gia

Nâng hàm lượng văn hoá trong ngoại giao

Ngoại giao văn hoá và hình ảnh người Việt xấu xí

"Mảnh đất ngoại giao văn hoá mới chỉ được xới lên"

Ngoại giao "phở" lại xứ sở của phở

Đến lúc này thì tôi thấy rằng, mình chẳng cần phải ga lăng làm gì với nhưng người như vậy & nhắc nhở "hai cô vui lòng xếp vào hàng chờ". Lúc đó họ mới nhận ra tôi cũng là người Việt & tỏ vẻ thiếu tôn trọng rồi nói khẽ với nhau, đủ để tôi nghe thấy 2 từ "Khốn nạn" rồi nhổ toẹt bã kẹo cao su xuống sàn nhà.

 Chiều nay, đi làm về sớm, tôi nhường xe lại cho vợ & đón xe buýt về cùng một người bạn Nhật Bản. Trên đường về, xe đón thêm khách, xe hết chỗ, vài người phải đứng, trong đó có 1 phụ nữ khoảng 30 tuổi có vẻ là công chức.

Tôi đứng dậy và mời chị ta ngồi vào chỗ tôi. Chị ta nhìn tôi, không cười, không thể hiện bất cứ trạng thái gì trên khuôn mặt, lẳng lặng ngồi xuống ghế rồi ngoảnh mặt đi! Anh bạn người Nhật cùng đi nhìn tôi mỉm cười và lắc đầu.

Đó là 3 ví dụ cho hàng trăm lần tôi có dịp chứng kiến, chẳng cần phân tích kỹ chúng ta cũng thấy hình ảnh người Việt có thể để lại ấn tướng gì cho người nước ngoài. Thậm chí, ngay cho những người Việt còn lại chưa bị "thừa tự ái, thiếu tự trọng".



--
Trần Huy Thông (Mr.)

Cell: +84 904 109 763
Email: tranhuythong@gmail.com
Blog: http://2socs.blogspot.com (photos & video)
Blog: http://2socshn.blogspot.com (Thông tin - Information)