| ||
Tối hôm đó, các ông đã đốt một đống lửa to, mãi không thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3 lần mà chẳng thấy máy bay đâu, đến 11 giờ đêm thì mọi người nản quá không đốt nữa.
Trong ký ức đồng đội và người thân
Chúng tôi đã tìm gặp một số cựu chiến binh không quân của các tổ bay IL-14 tham gia chiến đấu trong chiến dịch Mậu Thân. Ông Lê Ngọc Chuyền, nguyên là cơ giới trên không của tổ bay xuất kích lúc 16 giờ 50 phút, ngày 7/2/1968 (trước tổ của phi công Phạm Kế 10 phút) cho biết: Ngày 7/2 có tất cả 6 chiếc IL-14 xuất kích, trong đó 3 chiếc mang vũ khí có nhiệm vụ hạ đồn Mang Cá ở Huế, còn 3 chiếc mang hàng tiếp tế cho chiến trường.
Tổ của ông Chuyền nằm trong nhóm đi hạ đồn Mang Cá do phi công Hoàng Liên lái chính. Theo kế hoạch, những chiếc IL-14 bay dọc biên giới Việt Lào, đến sông Sê-pôn thì thọc xuống biển rồi vòng vào Huế hạ thấp độ cao. Vì thời tiết xấu, nhóm đánh đồn Mang Cá không tìm thấy mục tiêu, 2 trong 3 chiếc đã bay trở ra cửa biển Cửa Việt (Quảng Trị) và bắn chìm 1 tàu chiến của địch, bắn 2 tàu khác bị thương rồi về sân bay Gia Lâm hạ cánh an toàn; còn chiếc của ông Chuyền trên đường quay về thì bị bắn thủng thùng xăng, phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay Sao Vàng (Thanh Hóa).
Ông Nguyễn Bình Sen, nguyên là cơ giới trên không và ông Nguyễn Văn Sửu, nguyên là lái phụ của một trong nhóm 3 chiếc có nhiệm vụ thả hàng (cùng tổ của phi công Phạm Kế) thì nhớ lại: Tổ của các ông do phi công Võ Minh Chung lái chính, khi vào Quảng Trị, đến địa điểm giao ước đã nhận thấy 3 đống lửa ám hiệu của quân ta và tiến hành thả hàng và vũ khí.
Thả xong, tổ bay của các ông còn liên lạc với tổ của phi công Phạm Kế một lần, khi tổ của Phạm Kế phát mật khẩu “bán hàng chưa” ông đã trả lời “bán rồi”. Sau đó chỉ có tổ của các ông trở về sân bay Gia Lâm, lần liên lạc là lần cuối cùng giữa ông và những người đồng đội trong tổ bay.
Sáng hôm sau các ông biết tin Đoàn 559 điện ra thông báo đã nhận được hàng do chiếc máy bay của ông thả, còn 2 chiếc cùng nhóm được biết một chiếc về đến Đô Lương (Nghệ An) thì bị Hạm đội 7 của Mỹ bắn và rơi trên đất Lào, còn một chiếc không thấy trở về và cũng không có tin tức gì. Những ngày sau đó các tổ bay IL-14 tiếp tục cất cánh vào Trị Thiên - Huế. Kết thúc chiến dịch Mậu Thân, tất cả có 4 chiếc IL-14 không trở về và cũng không có tin tức gì cho đến nay.
Tại lễ truy điệu các liệt sĩ được tổ chức tại Đoàn bay 919, ông Phạm Đình Đạt, nguyên là diễn viên múa Đoàn văn công Quân khu Trị Thiên - Huế, nay sống tại phường Nhân Chính (Hà Nội) cho chúng tôi biết, trong một đợt đi biểu diễn phục vụ mặt trận phía bắc Huế trong chiến dịch Mậu Thân, chính ông và 2 người nữa cũng được giao nhiệm vụ đốt lửa làm hiệu để máy bay thả hàng.
Tối hôm đó, các ông đã đốt một đống lửa to, mãi không thấy máy bay đến nên lại dập đi, rồi lại đốt, rồi lại dập, tất cả đến 3 lần mà chẳng thấy máy bay đâu, đến 11 giờ đêm thì mọi người nản quá không đốt nữa.
Ông Nguyễn Văn Sửu hiện ở ngõ 117, đường Nguyễn Sơn là người khá thân với phi công Phạm Kế, lái chính của tổ bay vừa được tìm thấy tại A Lưới. Ông kể: "Tôi và anh Phạm Kế cùng học ở Trường văn hóa Lạng Sơn về đơn vị cách nhau vài tháng. Ngày đó, chúng tôi được cán bộ Bộ Tổng tham mưu trực tiếp xuống giao nhiệm vụ. Sáu tổ bay được thành lập và tổ chức huấn luyện. Chúng tôi sơ tán về thôn Quán Khê, xã Dương Quang, cách sân bay Gia Lâm hơn 10km. Ở đó chúng tôi được học chính trị, học sơ đồ đường bay, tính toán trên bản đồ... Sau đó là tập bay đêm, một số đồng đội đã được bố trí đốt lửa làm địa tiêu để phi công bay tập nhận biết, tập thả hàng. Địa bàn huấn luyện và đốt lửa chủ yếu ở vùng tây bắc. Sau này chúng tôi mới biết tập để vào Trị Thiên thả hàng sẽ hiệp đồng đốt lửa như vậy.
Đến tháng 2/1968 thì Tư lệnh Phùng Thế Tài cho gọi chúng tôi về sân bay Gia Lâm. Từng tổ được giao nhiệm vụ riêng. Chúng tôi hiểu rằng đây là nhiệm vụ hết sức đặc biệt và quan trọng. Các máy bay tham gia phải xóa hết Quốc kỳ, số hiệu; tổ bay phải bỏ lại mọi thứ tư trang hành lý, nhất là các giấy tờ tùy thân, mỗi người được phát một bộ quần áo Quân giải phóng để mặc. Các việc làm trên nhằm mục đích dù thế nào cũng không để lộ là quân từ Bắc vào. Trước khi xuất kích, các tổ bay đều được chụp ảnh kỷ niệm.
Mọi người đều xác định tốt nhiệm vụ nên coi những chuyến đi ấy rất nhẹ nhàng. Trong đơn vị ai cũng xác định tư tưởng là vậy nhưng khi các tổ bay không trở về cả đơn vị buồn bã, mọi người nhìn nhau không nói được câu nào, cả nhà ăn vắng hoe. Chị nuôi quân nấu một nồi quân dụng cháo gà to ngồi chờ mãi nhưng chẳng ai trở về, chẳng ai đến ăn...". Ngày ấy ông Sửu cùng với phi công Phạm Kế ở cùng một phòng trong nhà trọ của ông Bảy ở thôn Quán Khê. Anh Kế là người hiền lành, trầm tính nhưng hay đùa, dí dỏm. Khi đó, anh đã có vợ và con.
Chúng tôi đến thăm gia đình của liệt sĩ phi công Phạm Kế. Hiện nay vợ và 3 người con của ông vẫn sống ở Gia Lâm, cách Đoàn bay 919 không xa. Bà Hạnh, vợ của liệt sĩ, năm nay đã ở tuổi 70, dáng người khắc khổ lam lũ, đôi mắt đục mờ, nghẹn ngào kể: “Tôi và ông ấy tuy có với nhau 3 mặt con nhưng sống bên nhau chả được mấy ngày, vợ chồng còn chưa thuộc hết tính nết của nhau thì ông ấy đã hy sinh”.
Quê ông bà ở xã Trung Lương, Đức Thọ (Hà Tĩnh). Ông sinh năm 1934, là con cả trong gia đình nông dân. Năm 1953, ông tình nguyện đi bộ đội, đơn vị đóng bên cầu Hiền Lương (Quảng Trị). Đến năm 1956 thì ông nghỉ phép về cưới bà, cưới nhau được 4 ngày thì ông trở lại đơn vị, khi ấy bà mới 20 tuổi. Sau đó ông chuyển ra một đơn vị pháo binh đóng quân ở Nghệ An, điều kiện gặp mặt giữa hai vợ chồng càng thưa thớt hơn.
Năm 1957, ông được quân đội cho đi học văn hóa ở Lạng Sơn, rồi học lái máy bay và về công tác tại Đoàn bay 919. Năm 1962, bà lại ra Hà Nội ở nhờ nhà người anh trai để được gần chồng. Kết quả chuyến đi ấy là bà đã mang thai và sinh đứa con đầu. Cũng muốn ở lại Hà Nội cho vợ chồng con cái gần gũi nhưng ở quê còn mẹ chồng, cụ lại rất mong cháu nên bà đã bế con về quê ở. Năm 1965, lần đầu tiên ông được về quê ăn tết với gia đình, cũng dịp ấy bà có mang đứa con thứ hai. Đến năm 1966 thì bà chuyển ra Hà Nội để vợ chồng đoàn tụ, đứa con lớn để ở quê với bà nội. Mang tiếng là gần nhau thật nhưng do nhiệm vụ thời chiến căng thẳng, những người lính Không quân ngày đêm phải trực chiến và thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt nên chồng bà cũng chẳng được đảo qua nhà mấy khi. Ra Hà Nội, bà xin vào làm công nhân tại Nông trường bò An Khánh gần sân bay Gia Lâm, mấy mẹ con mượn tạm gian nhà kho trải chiếu ra nền nhà ở tạm. Hôm nào ông về, người bảo vệ nông trường ở gần đó lại thương tình đi chỗ khác ngủ, nhường cho vợ chồng bà mượn tạm căn phòng cùng chiếc giường của mình. Những ngày trước tết Mậu Thân năm 1968 là những ngày vui vẻ của gia đình. Ông nói với bà, năm nay mà được nghỉ thì mùng 4 tết sẽ về để ăn tết với mấy mẹ con cho gia đình sum họp. Thế rồi, nhiệm vụ quá căng thẳng cứ cuốn đi, ông không tạt qua nhà được dù chỉ một lát. Cái tết lặng lẽ trôi qua.
Năm ấy địch đánh nhiều, mẹ con bà phải sơ tán đến ở trong một chiếc lò gạch cũ ở Làng Nha. Một buổi tối, sau tết hơn một tuần, khi mấy mẹ con bà đã yên giấc thì ông về, lúc đó đã là 2 giờ sáng. Ông thông báo sắp đi công tác. Rồi ông kéo bà lại và bảo: “Nếu một tháng sau mà không thấy anh trở về thì anh không còn nữa đâu, em chịu khó nuôi con, sau này con lớn thì nhờ chúng nó...”. Bà vừa khóc vừa hỏi: “Sao anh lại nói thế, sao anh lại không về?”. Thấy thế ông cười bảo, anh nói đùa đấy mà, anh mà chết thì ai sống với mẹ con em?
Bà đã ôm lấy ông mà khóc, linh cảm rằng ông sắp sửa nhận một nhiệm vụ rất quan trọng. Buổi tối mùng 10 tết năm đó là buổi tối cuối cùng bà được ở với ông. Sáng hôm sau, ông ra đi khi trời còn nhập nhoạng, và... không trở về. Sau đó, một tuần thì bà trở dạ sinh đứa con thứ ba. Đơn vị cử người ra thăm nói rằng ông đang học ở Trung Quốc không về được, có gửi cho chị và cháu chút quà gồm một cân miến, một gói chè, một bao thuốc lá, một gói kẹo và một lọ nước hoa, một lọ phấn rôm cho cháu bé mới sinh. Bà nghẹn ngào trong nước mắt: “Tôi biết chồng tôi hy sinh rồi, hãy cho tôi biết anh ấy hy sinh ngày nào để tôi còn cúng giỗ cho anh ấy... Đừng giấu tôi làm gì...”.
Sau khi ông Kế hy sinh, biết bao khó khăn chồng chất lên vai bà Hạnh. Một mình bà phải làm nuôi 3 con cùng mẹ chồng và bố đẻ ở quê ra vì nhà cụ ở quê bị trúng bom Mỹ, cháy hết không còn gì. Đến năm 1978 thì bà chuyển từ Nông trường An Khánh về làm nuôi quân ở Đoàn bay 919 là đơn vị của ông. Tần tảo làm lụng, thờ chồng nuôi con, đến nay các con của bà đều đã trưởng thành và có gia đình riêng, tuy chưa khá giả nhưng cũng có nghề nghiệp ổn định. Cả 3 người con của ông bà hiện đều công tác trong Tổng Công ty Hàng không, anh cả Phạm Ngọc Hải làm lái xe, người con gái Phạm Phi Yến làm kế toán ở Đoàn tiếp viên, người con trai út Phạm Ngọc Lâm sinh năm 1968, ngay sau khi cha hy sinh, nay làm ở bộ phận kiểm soát không lưu.
Một thành viên nữa của tổ bay là liệt sĩ Ngô Phượng Châu. Anh là người được những đồng đội còn lại và gia đình hết lời ca ngợi về tài năng và đức độ. Trong tổ bay của phi công Phạm Kế, Ngô Phượng Châu đóng vai trò dẫn đường. Ngay sau khi biết tin đã tìm được nơi tổ bay hy sinh, gia đình của liệt sĩ Ngô Phượng Châu gồm mẹ ông và 4 người em đã tìm đến cám ơn Quân chủng Phòng không - Không quân và Đoàn bay 919, tìm gặp những người đã trực tiếp đi vào A Lưới, nơi các anh hy sinh để tìm hiểu rõ hơn sự việc. Cụ Ngô Thị Tuyết là mẹ của liệt sĩ nay sống tại khu tập thể 1A - Đặng Thái Thân (Hà Nội) nghẹn ngào nói: “Gần 40 năm nay tôi tính từng ngày, biết rằng con là lính không quân, hy sinh thì cũng chẳng mong gì tìm thấy thi thể nhưng không ngờ sau bấy nhiêu năm lại có ngày tìm thấy nơi con ngã xuống, dù cho xương cốt không còn gì thì đó vẫn là một niềm an ủi lớn với gia đình”.
Liệt sĩ Ngô Phượng Châu sinh năm 1942. Gia đình anh là hậu duệ đời thứ bảy của Ngô Thời Nhậm. Mẹ anh vẫn nhớ như in hình ảnh cậu con trai ngộ nghĩnh khi nhà còn ở phố Khâm Thiên những năm đầu kháng chiến chống Pháp, mặc dù mới 5 tuổi đầu nhưng đã cầm cờ kháng chiến chạy dọc hành lang trên gác hô to “ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Việt Minh”. Khi gia đình chuyển lên sinh sống tại Việt Bắc, Phượng Châu được đi học Trường thiếu sinh quân ở Quế Lâm, Trung Quốc. Trước ngày lên đường anh còn tranh thủ vào rừng lấy củi cho mẹ chứa đầy gian bếp vì bà sắp đến ngày sinh nở. Cho đến trước lúc lên xe, được chia mỗi người một mũ lạc rang, anh còn tách khỏi các bạn chạy về đưa qua cửa sổ cho các em của mình. Trước khi mất, bố của liệt sĩ Ngô Phượng Châu chỉ mong sao có một ngôi mộ của anh trong một nghĩa trang nào đó, dù là mộ tượng trưng, để tưởng nhớ đến người con của gia đình.
Chị Ngô Thanh Tâm là em gái của liệt sĩ Ngô Phượng Châu, hiện công tác tại Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng thì lại nhớ về hình ảnh anh trai mình như một người anh ân cần tận tụy. Lá thư cuối cùng Ngô Phượng Châu gửi cho em trước khi hy sinh trong chuyến bay cảm tử, anh đã dặn dò em gái nhiều điều, đặc biệt còn chép tặng chị bài hát “Em là hoa pơ lang” và bốn câu thơ mừng sinh nhật lần thứ 20 của em gái. Trước khi lên đường thực hiện chuyến bay ngày 7-2-1968, anh mới cưới vợ được 10 ngày. Gia đình và vợ anh, chị Trịnh Thơ Thơ, lâu không thấy anh về thì sốt ruột lắm nhưng không biết làm sao. Sáu tháng sau ngày anh hy sinh, gia đình mới nhận được giấy báo tử. Chị Trịnh Thơ Thơ mãi sau này mới đi bước nữa, nhưng vẫn là một thành viên trong gia đình anh Ngô Phượng Châu.
Sau khi biết tin tìm thấy tổ bay cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân, chị Trần Thị Mây Lai ở thị trấn Bố Hạ, Yên Thế (Bắc Giang) cũng đã tìm về Đoàn bay 919 để thắp hương cho anh trai mình là liệt sĩ Trần Văn Thái trong tổ bay của phi công Phạm Kế. Chị Lai cho biết, bố mẹ chị chỉ có hai anh em. Anh Thái sinh năm 1945. Bố của anh chị là liệt sĩ chống Pháp, anh là con trai duy nhất trong diện được miễn nghĩa vụ quân sự nhưng khi Bộ đội Không quân về tuyển quân, vì rất yêu thích nên anh đã tình nguyện đi học lính dù. Sau này anh về nhận công tác tại Sư đoàn dù B05.
Trong chiến dịch Mậu Thân 1968, sư đoàn anh có nhiệm vụ phối hợp cùng Đoàn bay 919 để bay vào Trị Thiên - Huế thả hàng cho chiến trường. Trước tết năm đó anh được về thăm nhà mấy ngày. Anh nói với mẹ: Nhà mình dột lắm rồi, để con đi mấy ngày rồi con về con sửa cho mẹ, cho em. Và anh dặn chị Lai, anh đi ở nhà mẹ có ốm đau gì thì em nhờ hàng xóm, họ hàng giúp đỡ. Thế rồi anh đi, và đi mãi không về...
Khi từ A Lưới, Thừa Thiên - Huế trở về, chúng tôi đi trên con đường Hồ Chí Minh mới mang theo 8 phần hài cốt tượng trưng của các thành viên trong tổ bay cảm tử trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Bốn mươi năm, dù vật đổi sao dời, nhưng các anh - những tổ bay cảm tử - vẫn được tạc bia trong lòng đồng đội, trong lòng những người thân yêu
Theo www.cand.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét