Thứ ba, 21/10/2008, 07:00 GMT+7 | ||||
Nguyễn Sơn được mô tả là người có đôi mắt to, đen nhánh, lông mày rậm, thân hình rắn chắc, giọng nói vang ngân. Không chỉ là vị chỉ huy bản lĩnh, uy quyền, dày dạn trận mạc mà Nguyễn Sơn còn là nhà văn hóa với vốn kiến thức sâu rộng, tài diễn đạt tinh tường. | ||||
Mê Kiều Ông viết nhanh, viết hay và hùng biện tài tình, đầy sức thuyết phục. Đàn giỏi, hát hay, làm thơ, viết văn đối với một tướng trận đã là khó, Nguyễn Sơn còn viết kịch và dàn dựng kịch phục vụ chiến trường. Thời trường chinh kháng Nhật ở nước bạn, ông là một trong những người thành lập Đoàn kịch Công Nông - đoàn kịch đầu tiên của quân đội nhân dân Trung Hoa. Thời gian đứng đầu Liên khu 4, Nguyễn Sơn đã biến vùng đất “lửa” này thành trung tâm văn hóa sinh động, phục vụ đắc lực cho kháng chiến chống Pháp. Theo chính sách đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Mạnh thường quân” Nguyễn Sơn đã tập hợp đông đảo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng và tạo điều kiện cho họ cống hiến tài năng cho đất nước. Có thể kể đến những tên tuổi lừng danh từng có một thời đẹp đẽ dưới “trướng” vị tướng tài hoa Nguyễn Sơn như: Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tuân, Bửu Tiến, Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Đình Nghi, Chu Ngọc, Nguyễn Tiến Lãng, Hữu Loan, Phạm Duy, Thanh Châu, Trần Mai Ninh, Phùng Quán, Văn Chừng, Nguyễn Văn Thương, Đình Quang, Đoàn Chuẩn, Trần Hoàn, Sỹ Ngọc, Phạm Đình Chương... Nguyễn Sơn rất yêu thích các bộ môn nghệ thuật truyền thống và cũng am hiểu sâu sắc nhiều nền văn hóa khác, nhất là văn hóa Trung Hoa. Ông hết lòng ủng hộ các nghệ nhân Nguyễn Đình Nghi, Cả Tam trong việc củng cố, xây dựng bộ môn tuồng, chèo cổ. Trong hàng trăm cuộc diễn thuyết văn nghệ của mình, ông đặc biệt thích thú khi nói về đề tài Địa vị và giá trị truyện Kiều của Nguyễn Du. Có lần, mấy ngày liên tiếp, tướng Nguyễn Sơn đã đối thoại “tay đôi” với các nhà nghiên cứu và văn nghệ sĩ về vở kịch nổi tiếng Lôi Vũ của nhà văn Trung Quốc Tào Ngu. Là dịch giả Lôi Vũ và trực tiếp tham gia cuộc đối thoại ấy, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai phải ngạc nhiên: “Nguyễn Sơn nói chuyện về Lôi Vũ sâu sắc, đầy đủ hơn cả bản thân người dịch tác phẩm ấy”. Nhà văn Cửu Thọ kể rằng, một lần đến thăm trường thiếu sinh quân, tướng Nguyễn Sơn cho tập hợp học viên ở đình làng để ông nói chuyện. Lấy chiếc mũ bê-rê có quân hiệu đang đội để xuống bàn, vị tướng bảo: "Hôm nay chúng ta không nói chuyện quân sự mà nói chuyện văn học. Tôi sẽ trình bày về Truyện Kiều". Và ông nói một cách say sưa, hấp dẫn về áng văn bất hủ của Nguyễn Du bằng xúc cảm tinh tế, sâu sắc. Tướng Nguyễn Sơn tâm sự rằng: "Trong những ngày tham gia Vạn lý trường chinh, khi vượt qua những rặng núi tuyết lạnh thấu xương, mỗi lần tôi ngâm lên vài câu Kiều là thấy lòng mình ấm lại, là có thêm nghị lực để vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ". Mười hai chữ ân tình! Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong tướng đầu tiên cho các cán bộ chỉ huy cao cấp của quân đội. Hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp - tổng tư lệnh. Hàm Trung tướng cho ông Nguyễn Bình - tư lệnh Nam Bộ. Hàm Thiếu tướng cho các ông: Hoàng Văn Thái - tổng tham mưu trưởng, Trần Đại Nghĩa - cục trưởng Cục Quân giới, Văn Tiến Dũng - cục trưởng Cục Chính trị, Nguyễn Sơn- khu trưởng Khu 4, Chu Văn Tấn - khu trưởng Khu 1, Hoàng Sâm - khu trưởng Khu 2, Trần Tử Bình - chính ủy Trường Lục quân Việt Nam, Lê Thiết Hùng - tư lệnh kiêm chính ủy Bộ Tư lệnh pháo binh. Khi nhận tin mình chỉ được phong quân hàm Thiếu tướng, có lẽ Nguyễn Sơn chẳng mấy vừa lòng. Như thấu hiểu điều đó, một ngày của năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đại diện Chính phủ vào Liên khu 4 làm lễ tấn phong quân hàm Thiếu tướng cho Nguyễn Sơn. Rất hiểu tâm tính người học trò mình, Hồ Chủ tịch đã gởi kèm theo tấm danh thiếp. Bên ngoài phong bì ghi: Gởi Sơn đệ (chú Sơn). Mặt trước danh thiếp: Hồ Chí Minh. Mặt sau danh thiếp là bốn dòng chữ Hán viết nắn nót: Đảm dục đại Tâm dục tế Trí dục viên Hành dục phương (Gan nên lớn, tâm nên tế nhị, trí nên thấu đáo, hành động nên đúng đắn, ngay thẳng.) Mười hai chữ này Hồ Chủ tịch trích từ câu nói của Tôn Tử Mạo, nhắc nhở học trò mình: “Đảm dục đại nhi tâm dục dục tiểu, trí dục viên nhi hạnh dục phương, niệm niệm như lâm địch nhật, tâm tâm thường tự quá kiêu thì”. Nhận lệnh phong tướng cùng tấm danh thiếp, Nguyễn Sơn hết sức xúc động và suy nghĩ nhiều. Vị tư lệnh lừng danh ấy đã tâm sự với chiến hữu rằng: Từ xa ngàn dặm, với mười hai chữ ngắn gọn, ông Cụ đã gởi cho mình một bài học sâu sắc, một món quà hiếm quí, khiến mình phải suy nghĩ lại nhiều điều. Chỉ có mười hai chữ ấy thôi sao nó lay động tâm tư mình đến thế, và sao Bác ân cần cặn kẽ thế! Thật là uyên thâm, thật là chí tình... Tháng 9 năm 1937, sau sự kiện quân Nhật gây hấn ở Lư Cầu Kiều, Hồng Thủy gặp cô giáo tiểu học Trần Ngọc Anh bấy giờ là chủ tịch Hội phụ nữ kháng Nhật ở Sơn Tây, Trung Quốc. Tình yêu đến. Ngày một nồng thắm. Vào mùa xuân 1938, Hồng Thủy - Ngọc Anh kết bạn trăm năm ngay trên chiến trận. Đám cưới đơn sơ nhưng trang trọng. Duyên tình của họ được xem là cuộc hôn nhân đầu tiên trong hàng ngũ Bát lộ quân Trung Hoa. Các lão tướng Hồng quân khen Hồng Thủy... dân vận giỏi! Theo đề nghị của Hồng Thủy, Ngọc Anh đổi tên thành Trần Kiếm Qua. Đầu năm 1941, bà mang thai đứa con đầu lòng, lúc đang cùng chồng công tác ở Phân hiệu 2 Đại học kháng chiến thuộc chiến khu địch hậu kháng Nhật - Tấn Sát Ký. Tháng 8 năm 1941, Nhật đem 13 vạn quân tấn công chiến khu Tấn Sát Ký. Hồng Thủy được lệnh trực tiếp chỉ huy phá vòng vây, sơ tán. Trần Kiếm Qua cải trang ở lại. Đến tháng 10 năm 1941 vợ chồng sum họp bên đứa con mới mở mắt chào đời giữa đạn bom. Nhưng Trần Kiếm Qua bị bệnh nặng. Đứa con sớm yểu vong giữa môi trường sống khắc nghiệt ! Mùa hè năm 1943, vợ chồng cùng được về Diên An học ở Trường Đảng Trung ương, mở đầu cho hai năm thực sự hạnh phúc bên nhau của họ. Đứa con thứ hai mang tên Tiểu Phong đã ra đời. Đến tháng 8 năm 1945 giữa lúc Trần Kiếm Qua mang thai đứa con thứ ba, đặt tên Tiểu Việt, thì Hồng Thủy được lệnh trở về Việt Nam theo thỏa thuận giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Chủ tịch Mao Trạch Đông. Hồng Thủy đổi tên thành Nguyễn Sơn. Đang công tác ở Liên khu 4, ông chợt nghe tìn Hồ Tông Nam xua quân tấn công thủ đô kháng chiến Diên An. Hồng đô thất thủ. Vợ con ông bên Trung Quốc đã ngã xuống trong máu lửa... Nguyễn Sơn vô cùng đau buồn ! Rồi một thời gian sau, tướng Nguyễn Sơn phải lòng cô Lê Hằng Huân, một nữ sinh xinh đẹp tòng quân kháng chiến hết sức hâm mộ vị tướng tài hoa. Họ thành hôn và có với nhau hai mặt con. Về sau sang Bắc Kinh họ sinh thêm hai đứa con nữa. Như vậy, hai người vợ đã sinh hạ cho tướng Nguyễn Sơn tất thảy bảy đứa con. Năm 1950, Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc, khi đại lục vừa được hoàn toàn giải phóng. Điều bất ngờ là Trần Kiếm Qua vẫn còn sống, nuôi dưỡng hai con và... chờ chồng! Bà được giao nhiệm vụ Viện trưởng Viện hài nhi 1/6 của Bắc Kinh, rồi Phó cục trưởng Cục Giáo dục Bắc Kinh. Hồng Thủy - Trần Kiếm Qua vui mừng sum họp trong ngang trái sau năm năm xa cách. Giữa lúc Hồng Thủy đang khó xử, thì Trần Kiếm Qua đề nghị đưa bà Lê Hằng Huân cùng các con từ Việt Nam sang sống chung với ông... Còn phần mình, Trần Kiếm Qua quyết định thế nào? Bà cương quyết ở vậy nuôi hai con Tiểu Phong, Tiểu Việt trưởng thành, không nghĩ đến chuyện tình cảm riêng tư của bản thân mình nữa! Khi Hồng Thủy vĩnh biệt Trung Hoa về lại Việt Nam, Trần Kiếm Qua cũng không đưa tiễn. Bà sợ ông mang tiếng là có hai vợ. Đối với Tiểu Phong và Tiểu Việt, bà Trần Kiếm Qua chỉ nói rằng cha của chúng đang tham gia "Kháng Mỹ viện Triều". Cho đến tháng 01 năm 1974, bà mới thổ lộ sự thật cho các con và khuyên nên sang Việt Nam tảo mộ cho cha, thăm mẹ Lê và các em. Năm 2000, bà có cho xuất bản quyển tự truyện Hoàng Hà nhớ- Hồng Hà thương sau khi lần đầu về thăm quê chồng Việt Nam năm 1998. Khi tướng Nguyễn Sơn qua đời, bà Lê Hằng Huân mới ba mươi tuổi, sống đơn độc nuôi bốn con nhỏ nên người. Ngày đón Tiểu Phong, Tiểu Việt sang Việt Nam viếng mộ cha, bà nắm tay họ nói trong nước mắt: "Trước khi nhắm mắt, cha của các con mong có ngày sáu đứa con Việt - Trung được sum họp bên nhau. Ngày đó bây giờ đã đến !". Những năm tháng cuối cùng Năm 1950, theo đề nghị của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã đồng ý để Nguyễn Sơn sang Trung Quốc lần thứ ba làm nghĩa vụ quốc tế. Sau khi học bồi dưỡng ngắn hạn ở Học viện quân sự Nam Kinh, Hồng Thủy làm cố vấn cho Quân ủy Trung ương chi viện cho Việt Nam đánh Pháp, rồi tham gia cuộc chiến đấu “Kháng Mỹ viện Triều”. Ông cũng lần lượt được giao các nhiệm vụ: phó cục trưởng Cục điều lệnh Bộ tổng giám huấn luyện, tổng biên tập tạp chí Huấn luyện chiến đấu,... và được phong quân hàm Thiếu tướng tháng 9 năm 1955 trong đợt phong quân hàm đầu tiên cho các vị “khai quốc tướng soái” của nước Trung Hoa mới. Mùa hè năm 1956, căn bệnh ung thư phổi hậu kỳ của tướng Hồng Thủy phát nặng... Biết bệnh tình không thể qua khỏi, Hồng Thủy xin được về Tổ quốc. Chủ tịch Mao Trạch Đông tức tốc trao đổi với Chủ tịch Hồ Chí Minh, rồi cùng Thủ tướng Chu Ân Lai đón tiếp đặc biệt ân cần tướng Hồng Thủy tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh. Ba chiến hữu từng sát cánh bên nhau trong Vạn lý trường chinh bi thương và oanh liệt, Mao Trạch Đông - Chu Ân Lai - Hồng Thủy, may mắn còn sót lại, đã ôm nhau khóc nức nở trước khi từ biệt để một trong ba người vĩnh viễn ra đi! Nguyên soái Diệp Kiếm Anh cùng nhiều tướng soái khác cũng có mặt. Rồi đích thân Nguyên soái Bộ trưởng quốc phòng Bành Đức Hoài tổ chức chỉ đạo chuyến hồi hương cho tướng Hồng Thủy. Ngày 21 tháng 10 năm 1956, nghĩa là chỉ hai mươi ngày sau khi trở về nơi chôn nhau cắt rốn, tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội, tướng Nguyễn Sơn đã ung dung trút hơi thở cuối cùng, kết thúc một cuộc đời lừng lẫy nửa đầu thế kỷ XX ở phía chân trời phương Đông đầy biến động. Nhân dân và đồng đội từ Việt Nam đến Trung Hoa ngậm ngùi thương tiếc. Hồ Chủ tịch đến tận nơi đặt vòng hoa vĩnh biệt người học trò xuất sắc của mình. Từ đó, mỗi lần sang thăm Việt Nam, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều đến viếng mộ Hồng Thủy. Tên ông được đưa vào từ điển tướng soái Trung Hoa. Trong cuốn Truyện ba trăm danh tướng của Trường quân sự Hoàng Phố do nhà sử học Vương Vĩnh Quân biên soạn, xuất bản tháng 6 năm 1989 ở Quảng Tây, tác giả đã dành gần hai trang viết về danh tướng Hồng Thủy một cách trân trọng. Rồi trong cuốn Những người bạn nước ngoài của Trung Quốc, xuất bản năm 1993 tại Bắc Kinh, tướng Hồng Thủy cũng được ca ngợi đặc biệt như Borodin của Liên Xô... Tháng 9.2003, Hãng phim Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Hãng phim Châu Giang, Trung Quốc thực hiện bộ phim Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn, để tưởng nhớ một con người huyền thoại đã có đóng góp lớn lao vào tình hữu nghị giữa hai nước từ khi còn chìm trong khói lửa chiến tranh giải phóng dân tộc. Phan Hoàng |
Thứ Tư, 22 tháng 10, 2008
Bước quân hành "độc nhất vô nhị" của tướng quân Nguyễn Sơn (Phần II)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét