Thứ tư, 22/10/2008, 07:00 GMT+7 | ||||
Bộ phim Vương hậu Minh Thành của Hàn Quốc từng rất nổi tiếng ở Trung Quốc đã dựng nên hình tượng về cuộc đời một vị quốc mẫu Mẫn phi trải qua ba triều vua. Nhưng bộ phim này đã cố ý bỏ qua một chuyện tình cảm trong cuộc đời vị vương hậu đầy quyền lực này. Đó chính là mối tình giữa Vương hậu Minh Thành và Viên Thế Khải. | ||||
Khi Mẫn phi sinh, triều Lý sau 460 năm tồn tại đã đến lúc suy tàn. Khi đó Đạo Thiên Chúa đã bắt đầu được truyền bá, tấn công mạnh mẽ vào Lý học Trình Chu, khi đó đang giữ địa vị thống trị về tư tưởng ở Triều Tiên. Hai luồng tư tưởng cũ mới diễn ra những cuộc đấu tranh kịch liệt. Vào thời đó, triều Lý cũng giống như triều đình Mãn Thanh, vương thất hèn kém yếu đuối, đến một đứa trẻ cũng không sinh được. Trong vòng 50 năm trong các vương cung chưa từng nghe tiếng trẻ con khóc. Hoàn cảnh này khiến một người xuất thân hoàng tộc như Lý Ứng (tức Đại Viện Quân) khó tránh khỏi những toan tính riêng.
Lý Ứng thông minh hơn người nhưng những năm còn trẻ tiếng tăm không tốt. Khi ông ta còn là thanh niên để tránh khỏi những cuộc đấu đá giữa các thế lực vương thất nên đã cố ý làm một kẻ không có chí hướng, lang thang phóng túng, cả ngày chỉ có “gậy trúc giày cỏ” cùng với những kẻ lang thang nơi chợ búa du chơi xuân. Năm 1836 quốc vương Triết Tông chết, không có con nối dõi, ngai báu để không. Lý Ứng ngay lập tức thể hiện bản lĩnh phi thường của mình. Ông ta âm thầm kết giao với các thế lực rồi liên tiếp triển khai các hoạt động quan hệ xã giao cuối cùng giúp cho con của mình là Lý Hi khi đó mới 12 tuổi kế thừa ngôi báu, trở thành vua đời thứ 26 của Triều Tiên Lý Cao Tông.Vì thế Lý Ứng tự nhiên trở thành người nhiếp chính. Theo thể chế, nếu như chi thứ được kế vị làm vua thì cha sẽ được tôn xưng là Đại Viện Quân vì trước đó Lý Ứng đã có danh hiệu là Hưng Tuyên Quân nên trong lịch sử gọi ông ta là Hưng Tuyên Đại Viện Quân. Sau khi Đại Viên Quân nắm quyền chấp chính ông ta lập tức thực hiện những thủ đoạn cứng rắn, cải tổ chính quyền, trừ khử những thế lực thân tộc trong chính quyền, tấn công bè đảng đối lập, tăng cường vương quyền cho mình và con trai. Đương thời các thế lực thực dân phương Tây đã tiến vào vùng Đông Á, Trung Quốc và Nhật Bản đều bị ép buộc mở cửa, đối diện với cục diện phức tạp nhưng Lý Ứng là người áp dụng chủ nghĩa phong kiến chuyên chế nên đối sách của ông ta trong vấn đề này cũng rất truyền thống: Bế quan tỏa cảng. Đối với những cuộc viếng thăm của các thế lực Tây phương ông ta đều coi là “sự quấy nhiễu ở biển”, kiên quyết tấn công. Đối với ảnh hưởng của cuộc Duy Tân Minh Trị của Nhật Bản đang lan rộng, ông ta cũng coi “Nhật Tây cùng một loại”. Những chính sách đối nội và đối ngoại quá cứng rắn của Đại Viện Quân đã khiến cho các thế lực chống đối cấu kết với nhau. Trong đó đối thủ ghê gớm nhất chính là tập đoàn của Mẫn phi. Thực tế thì tập đoàn của Mẫn phi hình thành được cũng là nhờ một tay Đại Viện Quân gây dựng. Cho tới năm 1866, Cao Tông tức vị đã được 3 năm, tuy mới chỉ là cậu bé mới lớn 15 tuổi nhưng theo điển chế vương thất Triều Tiên đó là tuổi để thành lập vương phi. Đại Viện Quân lo sợ họa ngoại thích vốn đầy rẫy trong sử sách nên đưa ra điều kiện lựa chọn vương phi rất hà khắc. Những người trong gia đình vương phi phải ít con trai để không có suy tính việc chuyên chính của họ ngoại. Người được tuyển cũng phải là người dịu dàng hiền thục không có tâm địa tham gia vào việc chính sự. Với điều kiện như vậy rất nhiều con gái các gia đình danh gia vọng tộc bị loại ra ngoài bởi vì đàn ông trong các gia đình này chẳng phải là tam thê tứ thiếp, con cháu đầy nhà hay sao? Tháng 3/1866, Quốc vương Triều Tiên phải tổ chức hôn lễ. Mẫn thị chính thức trở thành vương phi. Năm đó cô 16 tuổi còn Cao Tông 15 tuổi. Ba năm đầu vào cung, Mẫn phi nghiêm cẩn giữ gìn điển chế của một bậc quốc mẫu, cố gắng làm một nàng dâu hiếu hạnh khiến ông bố chồng Đại Viện Quân rất lấy làm đắc ý. Nhưng điều khiến Mẫn phi lo lắng là ông chồng trẻ tuổi của mình đối với mình thì “kính nhi viễn chi” trong khi đối với một người con gái khác là Lý Thượng Cung thì lộ rõ sự nhiệt tình trong tình yêu của một chàng trai mới lớn. Vì thế vở kịch tranh đoạt sủng hạnh của Cao Tông cũng bắt đầu. Hậu cung Triều Tiên khi đó nằm xung quanh quốc vương, có cơ hội được gặp các cô gái của các vương thân. Ngoài trừ các vương phi là vợ chính thức còn có danh mục rất nhiều những phụ chức và phụ phụ chức. Những cô gái này về danh phận không thể so sánh với vương phi nhưng chỉ cần được quốc vương thích có thể được nâng lên địa vị tôn quý. Nếu như có thể sinh con rồng mà may mắn được lựa chọn làm thái tử kế vị thì mẹ phú quý nhờ con, một sớm một chiều cô ta sẽ trở thành người đứng đầu trong hậu cung. Vì thế trong lòng Mẫn phi cảm thấy rất lo lắng. Nhưng từ nhỏ Mẫn phi đã luyện được bản lĩnh khônghề để lộ sự lo lắng ghen ghét trên mặt. Mẫn phi vùi đầu đọc sách, cố gắng loại bỏ sự buồn phiền trong lòng, cô ta muốn đọc cho đến thuộc lòng Xuân Thu Tả truyện và những cuốn sách kinh điển dạy các bậc đế vương trị nước để chuẩn bị cho ngày sau lộng quyền. Quốc vương Cao Tông vui mừng khoa chân múa tay, ngay đến cha là Đại Viện Quân cũng vui mừng ra mặt. Vì đứa cháu ra đời, trong mắt Đại Viện Quân đó chính là dấu hiệu phục hồi của vương thất triều Lý. Vì thế trong tiếng hoan hô rầm trời, đứa trẻ vừa mới ra đời đã được phong làm Hoàn Hòa Quân. Tương lại vị Hoàn Hòa Quân này sẽ trở thành Đông cung thái tử là điều không phải nghi ngờ gì nữa.
Điều này tác động rất lớn đến Mẫn phi. Vốn là người rất mê đọc lịch sử của các vương triều Triều Tiên mỗi lần nghĩ đến những phụ nữ bị đem làm vật hy sinh cho các âm mưu chính trị trong cung không khỏi run sợ, toàn thân toát mồ hôi. Muốn nắm giữ vận mệnh của mình, không còn cách nào khác là phải tự tay nắm giữ quyền định đoạt vận mệnh bản thân. Mà khi đó người nắm đại quyền là Đại Viện Quân lại vì thích đứa cháu nhành thứ ra đời mà vui thích đến phát cuồng đã thúc đẩy Mẫn phi, cô âm thầm hạ quyết tâm, vì tương lai của bản thân, vì vương vị của người chồng trẻ nhu nhược, cô ta quyết định đoạt quyền. Vì thế Mẫn phi âm thầm hành động. Mẫn phi tự tổ chức binh mã của mình, âm thầm sắp xếp con cháu họ Mẫn vào trong chính quyền trung ương, lôi kéo để khóa chặt các tay chân cũ của Đại Viện Quân đồng thời kết giao với giới thượng lưu Triều Tiên để tìm “tay súng”. Trong giới trí thức Nho học đương thời không ít người cảm thấy bất mãn đối với sự cai trị của Đại Viện Quân như đại thần nổi tiếng một phương Thôi Ích Xuyên thường hay nói về thất bại của Đại Viện Quân. Mẫn phi lập tức sai họ hàng của mình đến liên lạc, kết giao. Như thế từ một cô gái nhỏ trong cung cấp được Đại Viện Quân lựa chọn Mẫn phi đã tổ chức một thế lực chống đối trong khi Đại Viện Quân không mảy may cảnh giác. Đến năm 1871 Mẫn phi cuối cùng cũng sinh con, Mẫn phi rất vui mừng cho rằng có thể dùng dòng trưởng loại bỏ dòng thứ. Không ngờ đứa trẻ không lâu thì mắc bệnh đường ruột, Đại Viện Quân vào núi tìm thuốc chữa trị, uống thuốc ba ngày sau thì đứa trẻ chết yểu. Hy vọng của Mẫn phi trong phút chốc hóa thành mây khói. Mẫn phi đau khổ không còn muốn sống nữa, càng cho rằng đây là ý đồ của Đại Viện Quân, càng thêm căm thù ông ta. Khi đó Triều Tiên đang phải trải qua tình trạng “thù trong giặc ngoài” chưa từng thấy trong lịch sử. Phía bắc gặp thiên tai, dân vùng biên giới bỏ trốn hết. Thương thuyền vũ trang của Mỹ xâm lược bị người dân đốt phá, đòi báo thù, phái tàu chiến đến tấn công. Người Đức lén xâm nhập vào Triều Tiên đào mộ Nam Đình Quân, cha của Đại Viện Quân. Trong dân nhiều nhóm người tạo phản. Kho thóc quốc gia bị cháy, tổn thất nghiêm trọng. Điều nguy hiểm hơn cả là Nhật Bản sau cuộc Duy Tân Minh Trị đã bành trướng ra bên ngoài, “Luận về việc chinh phục xứ Hàn” ầm ĩ khắp nơi. Mẫn phi cho rằng đây là lúc thời cơ chín muồi, bắt đầu hành động. Đầu tiên Mẫn phi ly gián mối quan hệ của cha con quốc vương, thuyết phục Cao Tông tự mình nắm quyền, sau đó cổ động cho cách quan trong triều dâng sớ vạch tội Đại Viện Quân. Trong triều đình rộ lên làn sóng mạnh mẽ muốn lật đổ Đại Viện Quân. Đại Viện Quân đột nhiên bị một cơn sóng như thế đánh vào không biết xoay sở ra sao, nhất thời không tìm được lý do cấm đoán quốc vương đã thành niên tự nắm chính quyền, bị bức phải về an dưỡng ở Cung Vân Hiện. Như thế, chính quyền mà Đại Viện Quân khổ tâm xây dựng trong mười năm phút chốc bị một nàng dâu vô danh tiểu tốt lật nhào. Đó là vào năm 1873, khi đó Mẫn phi 23 tuổi. Đến năm 1882, Viên Thế Khải theo Ngô Trường Khánh, tướng quân Hoài quân tiến vào Triều Tiên. Khi đó Viên Thế Khải mới chỉ 23 tuổi, tuổi trẻ anh tuấn không hề giống ngoại hình ục ịch của ông ta sau này. Sau khi Ngô Trường Khánh chết vào năm 1885, Viên Thế Khải được nâng lên làm đại sứ toàn quyền Tổng lý giao bộ thông thương sự nghị trú tại Triều Tiên. Với cương vị mới của mình Viên Thế Khải đã giúp đỡ vua Triều Tiên và Vương phi Minh thành Vương hậu cũng chính là Mẫn thị trừ khử kẻ thủ chính trị là Đại Viện Quân, được những kẻ thống trị tối cao ở Triều Tiên hết lời khen ngợi. Đương thời người cầm quyền thực tế ở Triều Tiên là Mẫn phi. Bà ta nghe theo kiến nghị của Viên Thế Khải, tổ chức xây dựng Nghĩa dũng đoàn, dùng Viên Thế khải làm đại sứ luyện quân, biến Nghĩa dũng đoàn trở thành lực lượng quan trọng nhất trong việc bảo vệ sự thống trị của tập đoàn Mẫn phi. Khi đó Mẫn phi nổi tiếng xinh đẹp, xưng là người đẹp nhất thế giới, cảm kích sự giúp đỡ của Viên Thế Khải trong việc giúp bà ta trừ khử kẻ thù lại càng ngưỡng mộ phong thái của Khải, có ý lấy thân mình đền đáp. Viên Thế Khải cũng không chịu sự cô đơn, hai người từ đó tư thông với nhau. Vì không muốn mọi người nghi ngờ, Mẫn phi đã nghĩ ra một cách là về nhà mẹ đem em gái của mình là Bích Thiền gả cho Viên Thế Khải. Bích Thiền tuy không xinh đẹp như chị mình nhưng cũng thuộc hàng đổ nước nghiêng thành và cũng lập chí rằng không phải kẻ anh hùng thì quyết không lấy làm chồng. Được Vương phi cổ vũ, Bích Thiền đã đồng ý chuyện hôn sự này. Qua được cửa này, Mẫn phi ngày nào cũng mượn cớ sang thăm em để đến nhà Viên Thế Khải. Nhưng không lâu sau thì Bích Thiền phát hiện. Bích Thiền rất tức giận, nhiếc mắng Viên Thế Khải. Viên Thế Khải cũng lo rằng việc tư thông với bậc quốc mẫu thiên hạ bại lộ sẽ có ảnh hưởng rất lớn, nên đã chấp nhận phương pháp của Bích Thiền, mang một cô vợ bé của mình từ Hà Nam đến, nói dối là chính thất, chủ trì việc trong gia đình. Chuyện này làm Mẫn phi căm giận vô cùng, bèn hợp tác với người vợ bé này để tìm cách phục thù Bích Thiền. Sau đó quân Nhật bắt đầu tấn công Triều Tiên, Viên Thế Khải về nước mang theo Mẫn phi và hai tùy nữ. Sau khi về nước, không biết vì lý do gì Viên Thế Khải lấy luôn hai tì nữ làm vợ lẽ, theo độ tuổi của hai người thành bà hai và bà tư còn Bích Thiền thì cho làm bà ba. Bích Thiền cho đến lúc ấy vẫn thường bị bà cả nói xấu, cả ngày rầu rĩ, buồn vui thất thường. Viên Thế Khải cũng thấy xấu hổ với Bích Thiền nên cứ để mặc và đối xử với Bích Thiền có hơi đặc biệt hơn so với những bà vợ khác một chút. Hy Văn (Vietimes) tổng hợp từ QQ.com |
Thứ Tư, 22 tháng 10, 2008
Phần III: Mối tình của Viên Thế Khải và Vương hậu Minh Thành
Phần II: Minh Thành Tổ giết người vô tội vì Quyền phi
Phần II: Minh Thành Tổ giết người vô tội vì Quyền phi | ||||
Thứ sáu, 17/10/2008, 07:00 GMT+7 | ||||
... "Nhân vật nam chính trong mối tình “xuyên quốc gia” này là Minh Thành Tổ Chu Đệ. Còn nhân vật nữ chính là Quyền phi, một cô gái đến từ Triều Tiên. Quyền phi là con gái của Quyền Vĩnh Quân, làm chức Công tào Điển thư của nước Triều Tiên. Xuất thân trong gia đình danh gia vọng tộc, là bậc ngàn vàng của gia đình thư hương, tự nhiên Quyền phi là bậc cao nhã, tài năng xuất chúng. Lại thêm dung mạo của cô rất xinh đẹp, dáng điệu thướt tha, là đại mỹ nhân nổi tiếng gần xa thời đó..." | ||||
Sau khi Chu Nguyên Chương chết, cháu là Kiến Văn Đế Chu Doãn Ninh thực hiện việc diệt trừ các phiên vương. Vào màu hạ năm Kiến Văn nguyên niên, tức năm 1399, Chu Đệ phát động chiến dịch Tịnh Nan. Vào tháng 6 năm Kiến Văn thứ 4, Chu Đệ tấn công Nam Kinh, đoạt ngôi vua. Năm sau đổi niên hiệu thành Vĩnh Lạc. Vì thế mà người đời sau mới gọi Minh Thành Tổ Chu Đệ là Hoàng đế Vĩnh Lạc. Sau khi lên ngôi, Chu Đệ năm lần dẫn quân chinh phạt Mông Cổ, truy kích tàn quân Mông Cổ để giảm bớt sự uy hiếp từ phương Bắc đối với triều Minh. Đồng thời Chu Đệ cũng là ông vua bắt tay đào dòng sông Đại Vận Hà nối liền hai miền nam bắc Trung Quốc, dời đô và xây dựng kinh đô Bắc Kinh, trở thành Hoàng đế người Hán đầu tiên trong lịch sử định đô ở Bắc Kinh, đặt nền móng cho lịch sử hơn 500 năm của thủ đô Bắc Kinh. Chu Đệ cũng là người tổ chức biên soạn bộ bách khoa toàn thư Vĩnh Lạc đại điển hơn 700 triệu chữ. Điều càng khiến Minh Thành Tổ Chu Đệ nổi tiếng là việc những chuyến thám hiểm đường biển của Trịnh Hòa. Trịnh Hòa trước sau bảy lần xuất dương. Lần xa nhất là đến bờ biển Châu Phi. Những chuyến đi của ông đã nối liền Trung Quốc với các quốc gia ven biển Ấn Độ và Đông Nam Á. Chính Minh Thành Tổ là người sáng lập nên vương triều Vĩnh Lạc phồn thịnh trong lịch sử triều Minh và lịch sử chế độ chuyên chế Trung Hoa. Tuy việc Minh Thành Tổ phát động chiến dịch Tịnh Nan gây ra nhiều tranh luận nhưng ông ta vẫn là một ông vua chuyên chế hùng tài đại lược. Hoàng đế của triều thành là Khang Hy từng viết bốn chữ lớn “Trị Long Đường Tống” (thịnh trị hơn hẳn Đường Tống) để ca ngợi công lao của Chu Đệ. Sau khi Chu Đệ qua đời, mọi người không ca ngợi công lao của ông ta trong việc sáng tạo nên vương triều Vĩnh Lạc phồn thịnh thì cũng chỉ trích ông ta phát động chiến dịch Tịnh Nan đem đến cho nhân dân bao điều khổ nạn mà rất ít người đề cập đến đời sống tình cảm của ông vua này. Vì thế chuyện Minh Thành Tổ Chu Đệ có một người tình ở “bờ bên kia đại dương”, một mối tình “xuyên quốc gia” cho đến nay vẫn chưa có ai nhắc đến. Nhân vật nam chính trong mối tình “xuyên quốc gia” này đương nhiên là Minh Thành Tổ Chu Đệ. Còn nhân vật nữ chính là Quyền phi, một cô gái đến từ Triều Tiên. Quyền phi là con gái của Quyền Vĩnh Quân, làm chức Công tào Điển thư của nước Triều Tiên. Xuất thân trong gia đình danh gia vọng tộc, là bậc ngàn vàng của gia đình thư hương, tự nhiên Quyền phi là bậc cao nhã, tài năng xuất chúng. Lại thêm dung mạo của cô rất xinh đẹp, dáng điệu thướt tha, là đại mỹ nhân nổi tiếng gần xa thời đó. Bắt đầu từ triều Nguyên, người Triều Tiên đã bị Trung Quốc ép buộc tiến cống mỹ nữ. Đến đầu đời Minh vẫn như thế. Khi nhà Minh lập nước, trong hậu cung của Thái tổ Chu Nguyên Chương cũng có không ít phi tần là người Triều Tiên. Đến Minh Thành Tổ Chu Đệ cũng được sinh ra bởi một người phi tần đến từ Triều Tiên. Có lẽ ông ta mang trong mình một nửa huyết thống Triều Tiên, cũng có lẽ hy vọng tìm thấy hình ảnh của người mẹ đã mất trong ký ức thời niên thiếu của mình ở những mỹ nhân đến từ Triều Tiên. Sau khi Thành Tổ đăng cơ, không ngừng ra chiếu chỉ phái người đến Triều Tiên chọn mỹ nữ đưa vào cung. Quyền phi cũng đến cung đình Trung Quốc vào thời gian này. Năm Vĩnh Lạc thứ 6, tức năm 1408, Minh Thành Tổ phái Nội sứ Hoàng Nghiêm cùng một số người đi sứ đến Triều Tiên, thưởng cho quốc vương Triều Tiên một vạn lạng vàng, 50 xếp lụa và nhiều tặng phẩm khác, báo cáo rằng quốc vương Triều Tiên dâng ngựa cho triều đình Đại Minh. Đồng thời đoàn sứ này cũng yêu cầu Triều Tiên tuyển chọn các mỹ nữ trong cả nước, cống tiến tới Bắc Kinh để sung vào hậu cung. Vì thế quốc vương Triều Tiên hạ lệnh cấm các cuộc hôn nhân để tuyển mỹ nữ chuẩn bị tiến cống. Khi đó, các vương công đại thần cho đến dân thường chẳng có ai mong muốn dâng con gái của mình dời nhà đến làm cung nữ ở một đất nước xa xôi cả ngàn dặm đường vì thế những người tuyển được đều là những cô gái không xinh đẹp gì. Hoàng Nghiêm xem qua một lượt những người đã tuyển được không vừa ý, ra lệnh cho triều đình Triều Tiên tuyển chọn đợt mới. Triều đình Triều Tiên phân cho các ti tuần sát tăng cường việc tuyển chọn, đồng thời thông cáo đến các quan phủ, phàm là con gái các hộ thứ dân, học trò, cho đến hương lại quan chức nếu có nhan sắc đều được tuyển dâng lên. Nếu như cố ý trốn tránh hoặc dùng các phương pháp kim châm, cắt tóc, dán thuốc để trốn tránh việc tuyển chọn thì đều bị xử lý theo luật pháp. Thông qua thủ đoạn cưỡng chế cuối cùng cũng tuyển chọn được những cô gái xinh đẹp. Hoàng Nghiêm và những sứ thần triều Minh sau khi nhìn qua một lượt, chọn được 5 người trong danh sách đưa lên và người đứng đầu là Quyền phi, khi đó mới 18 tuổi. Những người khác là: con gái của Nhân Vũ Phủ Tả Ti Doãn Nhâm Thiêm Niên, Nhâm thị, 17 tuổi. Con gái của pháp quan phủ Cung An Lý Văn Mệnh, Lý thị, 17 tuổi. Con gái của Hộ quân Lã Quý Chân, Lã thị, 16 tuổi. Con gái của Phó ti chính Trung quân Thôi Đắc Phi, Thôi thị chỉ mới 14 tuổi. Họ cùng với 12 thị nữ và 20 đầu bếp được đưa đến đô thành một đất nước xa xôi ngàn dặm. Khi dời khỏi nhà, cha mẹ họ hàng của những cô gái được tuyển chọn khóc không ngừng. Năm cô gái Triều Tiên được đem cống tiến, chốc chốc lại quay đầu, nước mắt không ngừng tuôn xuống, từ đó quê hương sẽ chỉ xuất hiện trong giấc mơ của họ, một cuộc phân ly mãi mãi!
Sau khi 5 cô gái Triều Tiên vào cung, Quyền phi được lập làm Hiền phi, Nhâm thị được lập làm Thuận phi, Lý thị được lập lập Chiêu Nghi, Lã thị được phong làm Tiệp Dư, Thôi thị được phong làm Mỹ nhân. Cha anh họ cũng đều được nhận quan chức của triều Minh. Như cha của Quyền phi được phong làm Quang Lộc Tự Khanh nhưng bổng lộc vẫn do triều đình Triều Tiên cấp. Đồng thời với họ cũng có hai người Hán được sắc phong là Trương thị và Vương thị. Trong 5 vị phi tần người Triều Tiên ở hậu cung của Minh Thành Tổ Quyền phi được Hoàng đế Minh Thành Tổ sủng ái nhất. Lần đầu tiên khi Minh Thành Tổ nhìn thấy Quyền phi đã bị vẻ đẹp thanh nhã kỳ lạ của cô hấp dẫn. Thành Tổ hỏi Quyền phi có tài năng sở trường gì. Quyền phi cầm chiếc tiêu ngọc luôn mang theo mình thổi một bản nhạc, tiếng tiêu lúc trầm lúc bổng, du dương êm ái, Thành Tổ nghe bản nhạc như say như tỉnh, vì thế mới chọn Quyền phi ở trên các phi tần khác. Vì đương thời người cai quản hậu cung của Minh Thành Tổ là Từ phi đã chết nên Thành Tổ đã để Quyền phi nắm quyền cai quản hậu cung. Quyền phi thông minh lại xinh đẹp, ưu nhã hơn người. Mỗi khi Thành Tổ bận hoàn thành việc triều chính, thân thể mệt mỏi đến cung của Quyền phi. Tiếng tiêu mỹ diệu của Quyền phi như một cơn gió xuân ấm áp khiến sự mệt mỏi của Thành Tổ tan biến. Từ sau khi Quyền phi vào hoàng cung triều Minh, một Hoàng đế quả cảm, cương nghị, nam tính mười phần như Thành Tổ đương nhiên là rất yêu một cô gái Triều Tiên yểu điệu, nồng nàn, xinh đẹp hiếm thấy như Quyền phi. Quyền phi không những chỉ được sủng ái nơi hậu cung mà còn luôn được ở bên Thành Tổ. Tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 8, tức năm 1410, Quyền phi theo Minh Thành Tổ đem quân chinh phạt Mông Cổ. Từ khi nhà Minh thành lập vùng biên giới phía Bắc luôn bị các thế lực tàn dư của quân Nguyên quấy nhiễu, xâm phạm biên giới nghiêm trọng. Từ cuối thời kỳ Hồng Vũ trở đi các bộ lạc Mông Cổ xảy ra nội chiến phân thành ba bộ phận lớn là Ngõa Lạt, Tác ta và Ngột Lương. Đến khi Thành Tổ lên ngôi tiếp tục thực hiện sách lược cùng lúc tấn công phân hóa và phong thưởng ra ân, việc xâm phạm biên giới mới được yên ổn. Năm Vĩnh Lạc thứ 5, thế lực của hậu duệ người Nguyên Bản Nha Thật Lý nổi dậy cùng với thái sư tộc Tác ta là A Lỗ Đài cùng nhau mưu đồ việc thống nhất Mông Cổ. Tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 7, Chu Đệ phái sứ thần đến Tác ta, muốn cùng họ giao hảo. Không hề nghĩ đến việc sứ thần bị giết hại, Chu Đệ nổi giận, ngay tháng 7 năm đó đã phái Kỳ quốc công Khâu Phúc dẫn 10 vạn đại quân thảo phạt bộ tộc Tác ta. Vì không đánh giá đúng về lực lượng quân đội của Tác ta, lại thêm sự chỉ huy không thích hợp, mười vạn quân của nhà Minh bị chôn vùi ở dòng sông Lư Cù, tức sông Khắc Lỗ Luân. Để bảo vệ sự tôn nghiêm của Hoàng đế Đại Minh Chu Đệ đã trực tiếp thân chinh dẫn quân tấn công Tác ta. Thành Tổ dẫn 50 vạn đại quân tiến sâu vào vùng sa mạc phương Bắc, ở sông Oát Nan, tức sông Ngạc Nộn đã đại phá đại quân của Bản Nhã Thất Lý, cuối cùng quân của Bản Nhã Thất Lý chỉ còn bảy kỵ binh chạy về phía Tây. Sau khi nhà Minh giành được thắng lợi đầu tiên, tiếng tiêu mỹ diệu của Quyền phi được truyền khắp vùng thảo nguyên ngàn dặm. Điều này khiến cho tinh thần của Minh Thành Tổ Chu Đệ phấn chấn bội phần, tiếp tục thừa thắng tiến lên, tiếp tục đại phá quân của A Lỗ Đài ở núi Hưng An. A Lỗ Đài phải mang vợ con chạy vào vùng núi sâu xa xôi của ngọn Hưng An. Chiến thắng này cũng đánh dấu sự kết thúc của chiến dịch Bắc phạt toàn thắng của vua quân triều Minh. Sau đó Chu Đề dẫn đại quân về triều. Quyền phi theo Chu Đệ về kinh khi đến Lâm Thành Sơn Đông đột nhiên mắc bệnh nặng cuối cùng không chữa trị được mà mất. Năm đó Quyền phi mới 22 tuổi, có thể nói là hồng nhan bạc mệnh! Minh Thành Tổ mất đi người thiếp yêu, nhất thời không tránh được sự đau xót, sau đó vì quá thương xót mà bị bệnh. Minh Thành Tổ cho án táng Quyền Phi ở huyện Dịch Sơn Đông còn hạ lệnh cho quan phủ cử người trông nom phần mộ. Sau khi Quyền phi chết, Thành Tổ đối đãi rất hậu với những gia nhân của cô, đồng thời Chu Đệ cũng khắc cốt ghi tâm từ tiếng nói đến vẻ mặt của Quyền phi. Một lần nhìn thấy người nhà của Quyền phi, Chu Đệ đột nhiên nhớ đến Quyền phi, đau đớn chảy nước mắt, không nói nên lời. Cái chết đột ngột của Quyền phi cũng có nguyên nhân rất đáng nghi. Trong cung đồn đại rằng Quyền phi bị đầu độc mà chết. Vì thế những người cung cấp rượu trong hậu cung đều bị án oan, rất nhiều người vô tội bị giết. Đây có lẽ câu chuyện “cái giận dựng mũ vì người đẹp” đầu tiên trong lịch sử. Khi xử lý vụ án này Thành Tổ Chu Đệ sử dụng những thủ đoạn rất tàn nhẫn, khiến nhiều người phẫn nộ. Nhưng từ đó cũng cho thấy Thành Tổ rất yêu thương và sủng ái đối với người thiếp đến từ Triều Tiên này. Vì phát động chiến dịch Tịnh Nan và lạm sát người vô tội trong vụ án của Quyền phi mà rất nhiều công trạng của Minh Thành Tổ trong nhiều năm bị chìm ngập trong những lời chỉ trích phê phán của người đời sau. Hy Văn (Vietimes) tổng hợp từ QQ.com |
Hoàng đế Trung Hoa và những người tình “bên kia đại dương” - phần I
Phần I: Đường Huyền Tông và người tình Trung Á | ||||||
Thứ hai, 13/10/2008, 07:00 GMT+7 | ||||||
Những mối tình “xuyên quốc gia” không phải chỉ là sản phẩm của xã hội hiện đại. Trong lịch sử cổ đại Trung Quốc cũng không ít những mối tình “Đông Tây kết hợp”. Ví như Đường Huyền Tông Lý Long Cơ, Minh Thành Tổ Chu Đệ, cho đến Viên Thế Khải đều từng có những “người tình bên kia đại dương” nổi tiếng trong lịch sử… | ||||||
Liêu lạc cổ hành cung, Cung hoa tịch mịch hồng. Bạch đầu cung nữ tại. Nhàn tọa thuyết Huyền Tông. (Chốn hành cung xưa nay tiêu điều Cung hoa một thời nay trở nên tịch mịch. Chỉ còn lại đây những cung nữ bạc đầu, Ngồi nhàn nói chuyện về vua Huyền Tông.)
Những bài Đường thi thường kích thích những người đời sau mơ mộng viển vông về một Đường Huyền Tông Lý Long Cơ cả đời phong lưu. Một Dương quý phi Dương Ngọc Hoàn “Trời sinh đã xinh đẹp đức hạnh không tự bỏ đi được”, cũng khiến cho bậc đại thi hào như Bạch Cư Dị làm bài Trường hận ca lưu truyền thiên cổ. Nhưng gần đây, Cát Thừa Ung, chuyên gia Văn sử, Tổng biên tập Tạp chí Văn sử Trung Quốc, đã phát hiện rằng, ngoài Dương quý phi, trong số các thần thiếp của Huyền Tông còn có một “Hồ tuyền nữ”[1]: “huyền cổ nhất thanh song tụ cử, Hồi tuyết phiêu phiêu chuyển bồng vũ” (nghĩa là Một tiếng trống vang lên thì hai cánh tay áo bắt đầu nâng lên, Điệu múa tiên bắt đầu, gió tuyết bay bay), một “Dương quý phi” đến từ Trung Á. Đường Huyền Tông có 29 người con gái và 30 người con trai. Những Hoàng hậu và phi tần được ghi chép trong sử sách gồm có Lưu Hoa phi, Triệu Lệ phi, Tiền phi, Hoàng Phủ Đức nghi, Vũ Huệ phi, Liễu Tiệp dư… hơn 20 người, còn có một số phi tần không được ghi chép lại, trong đó khiến người ta cảm thấy kỳ lạ nhất chính là Tào Dã Na Cơ (người đẹp Tào Dã Na). Trong Chư đế công chúa truyện của Tân Đường thư cũng chép: “Công chúa Thọ An, do Tào Dã Na sinh”. Cát Thừa Ung nói: “Đối với Tào Dã Na, mẹ của công chúa Thọ An, một thời gian dài các học giả cho là không thể khảo chứng được. Nhưng nếu như ta lần theo con đường giao lưu văn hóa Đông Tây rồi dần dần tìm hiểu thì có thể thấy mối quan hệ giữa người Sodian và người Trung Quốc cổ đại là rất mật thiết”. Vào thời Ngụy Tấn Tùy Đương, chữ “Cơ” (姬) được mọi người dùng để gọi những người phụ nữ trẻ đẹp, là một cách gọi (tước hiệu) về chức phận của phụ nữ. “Dã Na” là tiếng du nhập từ bên ngoài, còn họ Tào vốn là họ Hán được những người Sodian ở Trung Á sau khi du nhập vào Trung Quốc thường dùng. Vậy chẳng phải Tào Dã Na là người đến từ Tào Quốc của Trung Á? Tào Quốc vốn là một quốc gia thuộc đặc khu của người Sodian, nay thuộc Tajikistan, Uzbekistan. Người thời Tùy Đường thường lấy tên nước để gọi tên những người đến từ đặc khu của người Sodian, được gọi là “Chiêu Vũ cửu tính”[2]. Họ Tào đến từ Tào Quốc cũng như họ Mễ, họ Sử, họ Khang, họ An lấy nước làm họ đều là những họ Sodian nhập cư vào biên giới Trung Quốc. Cát Thừa Ung nói, sách vở Đôn Hoàng của Turpan đã tiết lộ những thông tin phong phú về tên họ, giúp người đời sau có thể nghiên cứu một cách kỹ lưỡng về họ Tào. Sách vở được khai quật từ Turpan đã ghi chép về những cái tên như Tào Đình Na, Tào Dã Na. Thạch Thất ở Sơn Tây Quế Lâm niên đại Cảnh Long năm thứ 3 đời Đường (tức năm 709) cũng có đề tên An Dã Na.
Cát Thừa Ung nói: “Tên gọi Tào Dã Na cơ không nghi ngờ gì nữa là chuyển ngữ sang chữ Hán. Tào là cách xưng hô phổ biến đối với những người Sodian đến từ Tào Quốc. Còn hai chữ Dã Na rõ ràng là một tên rất phổ biến của người Sodian. Trong tiếng Sodian, nó có nghĩa là ‘người được yêu thích nhất’. Những người con trai hay con gái xinh đẹp đều có thể lấy tên này…” “Tên Tào Dã Na chưa được cải biến theo âm của người Hồ, có thể thấy người phụ nữ này Hán hóa chưa sâu. Thông thường, những người Sodian lấy tên thường dùng tên Hán, chứng tỏ sự Hán hóa đã rất sâu sắc như thế thì rất khó phán đoán cô ta có phải là người Sodian hay không”. Là người sáng lập nên thời “Khai Nguyên thịnh thế” (thời kỳ thịnh trị Khai Nguyên), Đường Huyền Tông có cả “ba ngàn người đẹp trong hậu cung”, trong đó có một người tên gọi là “Tào Dã Na”, từng được Đường Huyền Tông mê đắm vô cùng. Nhưng mà là một người phụ nữ nước ngoài, làm sao cô đến được Trung Quốc để có cơ hội gặp gỡ và được Đường Huyền Tông sủng ái? Căn cứ vào các manh mối lịch sử và kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước về việc nhập cư của người Sodian vào Trung Quốc thì nguồn gốc của những người phụ nữ Trung Á đến Trung Quốc có ba khả năng: Đầu tiên là những người nguồn gốc từ những cuộc mua bán tì nữ người Hồ trên Con đường Tơ lụa. Các nước Khâu Từ và Vu Điền đời Đường đều cho bố trí các tiệm buôn bán phụ nữ, Tây Châu thì kế thừa thị trường buôn bán nô lệ hưng thịnh của Cao Xương đặc biệt là việc buôn bán những nô tì người Hồ rất thịnh hành. Cát Thừa Ung nói, giá nô tì ở kinh thành Trường An đương thời khá cao, mỗi người đáng giá 250 xếp lụa còn ở Tây Châu chỉ có 40 xếp. Như thế so với Tây Châu, Trường An cao gấp 6 lần. Điều này kích thích các lái buôn Trung nguyên lẫn người Hồ mang những nô tì người Hồ đến Quan Trung, Giang Hoài buôn bán. Thứ hai là những người phụ nữ Sodian trong các xóm người Hồ ở Trường An. Những người của chín họ Trung Á di cư đến Trường An rất nhiều, đặc biệt là những người Hồ thường qua lại trên Con đường Tơ lụa. Họ thường lấy Trường An làm nơi đầu mối chuyển hàng hay nơi trực tiếp buôn bán. Sau đó có rất nhiều người trong số họ định cư ở Trường An.
Ngoài ra trong vườn lê của Hoàng gia cũng có không ít các nghệ thuật gia người Hồ. Con gái của gia đình người Hồ họ Tào làm kỹ nữ nhập cung có thể được lựa chọn làm thê thiếp của Hoàng đế. Nhưng nếu như Tào Dã Na xuất thân từ trong một gia đình kỹ nữ người Hồ ở Trường An, thì thông thường theo tục lệ của người Sodian không thể dùng hai chữ “Dã Na” để làm tên được. Thứ ba là là những “Hồ tuyền nữ” hay những cô gái người Hồ do những người Sodian Trung Á tiến cống đến Trường An. Chiêu Vũ cửu tính ở Trung Á chính thức quan hệ với triều Đường thường theo hình thức cống tiến và ban thưởng, số lần cống tiến nhiều và chủng loại sản phẩm cống tiến cũng phong phú. Với một thời gian dài nghiên cứu mối quan hệ giao lưu Trung Quốc Tây Á, giáo sư Sái Hồng Sinh căn cứ vào thống kê từ Sách phủ nguyên quân, trong vòng 100 năm từ năm thứ 7 Vũ Đức thời Cao Tổ (tức năm 624) cho tới năm Đại Lịch thứ 7 (tức năm 722) chín họ người Hồ đã cống tiến 94 lần, trong đó Tào Quốc có 8 lần. Đặc biệt là vào nửa đầu thế kỷ thứ VIII khi quân đội của đế quốc Ả Rập liên tục tấn công ở phía Đông, bức ép các quốc gia ở vùng Trung Á khiến họ phải đến Trung Quốc xin trợ giúp. Trong đó thời kỳ Đường Huyền Tông trị vị chiếm hơn một nửa số lần cung tiến. Vào năm Thiên Bảo thứ 4 (tức năm 745) Quốc vương Tào quốc La Bộc Lộc dâng biểu cống tiến hy vọng thoát khỏi sự uy hiếp của quân đội Ả Rập nguyện làm một châu nhỏ của triều Đường. Xét trong tình hình đó việc tiến cống một “Hồ tuyền nữ” cũng là chuyện có nhiều khả năng xảy ra. Cát Thừa Ung nói: “Sử chép, thời kỳ Khai Nguyên có rất nhiều nước cống tiến Hồ tuyền nữ. Khang Quốc cũng cống tiến Hồ tuyền nữ, Sử quốc cũng nhiều lần cống tiến Hồ tuyền nữ, Mễ quốc cũng cống tiến ba Hồ tuyền nữ. Giống như một tập quán truyền thống, việc Tào Quốc cống tiến Hồ tuyền nữ là chuyện rất tự nhiên”. “Là một cô gái xinh đẹp muôn phần, giỏi ca hay múa, Hồ tuyền nữ là những người phụ nữ nước ngoại dễ tiếp cận với Hoàng đế nhất. Tào Dã Na có lẽ là một Hồ tuyền nữ được Tào Quốc cống tiến vào thời kỳ Khai Nguyên. Vì tài sắc mà được Huyền Tông đưa vào cung. Người này so với Dương quý phi thông minh lanh lợi đoán ý Huyền Tông lại ‘giỏi ca múa, hiểu âm luật’ chẳng khác là bao nhiêu”. [1] Hồ tuyền là tên một điệu múa của người Hồ rất thịnh hành vào đời Đường. Hồ tuyền nữ chỉ những người phụ nữ người Hồ múa điệu Hồ tuyền. Bạch Cư Dị có làm một bài thơ tên là Hồ tuyền nữ. [2] Tên gọi chung của hơn 10 tiểu quốc của những người Sodian và hậu duệ của họ từ đặc khu Sodian đến Trung Nguyên vào thời Nam Bắc Triều và Tùy Đường. Vua của họ lấy họ là Chiêu Vũ. Nguồn gốc của từ Chiêu Vũ đến nay vẫn chưa xác định được. Tân Đường thư lấy Khang, An, Tào, Thạch, Mễ, Hà, Hỏa Tầm, Mậu Địa, Sử gọi là Chiêu Vũ cửu tính. Còn lấy Đông An Quốc, Hoa Quốc, Hãn và Na Sắc Ba bổ sung vào đó. Tào Quốc cũng được phân làm ba nước Đông, Tây và Trung. Một căn cứ khác là Bắc sử và Tùy thư, Ô Na Hạt, Mục Quốc, Tào Quốc cũng là các quốc gia có họ vua là Chiêu Vũ. Căn cứ vào ghi chép của Tùy thư, Chiêu Vũ cửu tính vốn là người nướ Nguyệt Thị (Tây Vực), trước sống ở núi Kỳ Liên khu vực phía Bắc của Chiêu Vũ thành (nay là Lam Trạch Cam Túc Trung Quốc) vì bị quân Hung Nô tấn công nên chạy qua phía Tây Song Lĩnh, phân vương theo chi thứ lấy Chiêu Vũ làm họ. Cư dân sống chủ yếu nhờ vào nông nghiệp kèm theo việc buôn bán và chăn nuôi. Trong sử sách Trung Quốc nói họ vốn sống ở núi Kỳ Sơn phía Bắc thành thành Chiêu Vũ, bị Hung Nô tấn công nên di cư sang phía Tây đến vùng sông Trung Á, theo chi thứ mà phân vương, có Khang, An, Tào, Thạch, Mễ, Sử, Hà, Mục, gồm 9 họ, đều có họ chung là Chiêu Vũ nên gọi là Chiêu Vũ cửu tính. Hy Văn (Vietimes) tổng hợp từ QQ.com |
Khang Hy: vị Hoàng đế háo sắc nhất của vương triều Mãn Thanh? (Phần II)
Thứ sáu, 12/9/2008, 07:00 GMT+7 | ||||||
Cho đến những năm cuối đời Khang Hy vẫn không ngừng triệu các cô gái xinh đẹp của vùng Giang Nam vào cung làm thiếp mà hoàn toàn không phải để sinh con cho ông ta. Từ đó có thể thấy là nhu cầu tính dục của Khang Hy không hề giảm? | ||||||
Khang Hy sinh vào năm Thuận Trị thứ 11 (năm 1654), chết vào năm Khang Hy thứ 61 (1722), sống 69 tuổi. Tám tuổi đã kế vị, bốn năm sau thì lập Hoàng hậu. Năm đó, thực tế Khang Hy chỉ mới 11 tuổi 6 tháng. Từ đó về sau đã nạp thêm rất nhiều phi tần. Năm Khang Hy thứ 6, một bà phi họ Mã Gia đã sinh cho Khang Hy đứa con trai đầu tiên, năm thứ hai một vị thiếp khác mang họ Trương đã sinh ra một vị trưởng công chúa. Cho tới năm Khang Hy thứ 57, một người thiếp họ Trần còn sinh ra một hoàng tử. Dó đó có thể thấy cuộc sống hôn nhân của Khang Hy trước sau 57 năm (từ cuộc hôn nhân đầu tiên đến khi chết), mà ông ta đến tuổi 65 vẫn còn khả năng sinh con.
Ngoài ra theo sự phân tích của học giả Dương Trân thì năm Khang Hy thứ 39 trở về trước, có 23 vị hậu phi sinh hạ được 44 đứa con cả trai lẫn gái, trong số đó những người mang dòng máu Mãn Châu là 18 người, sinh ra được 37 người con. Số hậu phi là người Hán chỉ có 5 người, sinh được 7 người con. Nếu tính phần trăm thì số người Mãn chiếm tới 78,3% còn số người Hán chỉ chiếm 12,7%. Từ năm Khang Hy thứ 40 trở về sau, cũng chỉ có 9 người được nạp làm phi tần và sinh được 11 người con, trong đó những phi tần là người Mãn có 3 người, chiếm 33%, sinh được 3 người con, chiếm 27%. Phi tần là người Hán có 6 người, chiếm 66%, sinh được 8 người con, chiếm 72,9%. Theo đó có thể thấy những năm cuối đời mình Khang Hy có xu thế “sủng hạnh” đối với những phi tần tộc Hán. Nếu lại xem xét chuyện nạp phi sinh con của Khang Hy từ năm Khang Hy thứ 50 về sau sẽ thấy rằng chỉ có 5 vị phi tần sinh hạ được 5 người con cho Hoàng đế, mà trong đó những phi tần là người Hán có tới 4 người, số con họ sinh ra cũng là 4 người, nếu chia phần trăm thì đều là trên 80%. Giáo sư Dương Trân còn nhấn mạnh rằng: “Có thể thấy, trong số những phi tần có quan hệ với Khang Hy trong giai đoạn này, người Hán đã chiếm ưu thế. Họ hoàn toàn không phải là người của Bát kỳ quân Hán mà đều là những cô gái đẹp đến từ vùng Giang Nam”. Cho đến những năm cuối đời Khang Hy vẫn không ngừng triệu các cô gái xinh đẹp của vùng Giang Nam vào cung làm thiếp mà hoàn toàn không phải để sinh con cho ông ta. Từ đó có thể thấy là nhu cầu tính dục của Khang Hy không hề giảm? Nói tới những mỹ nữ Giang Nam nhập cung, ở trên tôi đã nói tới việc giáo sĩ người Pháp ca tụng chuyện Hoàng đế Khang Hy từ chối không nhận mỹ nữ do quan chức địa phương cống nạp, thậm chí còn hình dung đây là một vị “thánh nhân thiên tử”, như đoạn “không nhìn đến lần thứ hai” (đối với các mỹ nữ). Trên thực tế thì không hoàn toàn như vậy. Bởi vì chúng tôi đã phát hiện từ những hồ sơ mật được cất giấu trong cung nhưng tư liệu rất đáng tin cậy, đủ để chứng minh rằng lời nói Joachim Bouvet là không đúng. Tháng 7 năm Khang Hy thứ 48, Lý Húc một thân tín của Hoàng đế khi đó đang nhậm chức chức tạo ở Tô Châu đột nhiên dâng một bản mật sớ. Trong bản sớ đã báo rằng “Hoàng thị, mẹ của vương phi nương nương, ngày 2 tháng 7 đột nhiên mắc bệnh kiết lỵ, chữa trị không được. Đến 7/7 thì qua đời, sống 70 tuổi”. Khang Hy xem xong bản mật sớ, chỉ phê rằng: “Biết rồi, sẽ lưu lại, tiện sẽ nói cho biết”. Ý nghĩa của lời phê này là: “Ta đã biết việc mật báo của Lý Húc nhà ngươi. Thư nhà của vương gia tạm thời lưu lại, đợi đến sau này sẽ cho Vương phi biết”. Mẹ của Vương nương nương họ Hoàng, sống ở vùng biên giới Giang Tô, sự việc này cũng có liên quan đến tin tức bí mật của cung đình, chỉ có thân tín như Lý Húc mới dám báo cáo với Hoàng đế. Ngoài ra từ những tư liệu về hậu phi trong hậu cung dưới thời Khang Hy có thể thấy vị nương nương họ Vương này đã từng sinh con cho Khang Hy, tức Dận Lộc,… Người con trưởng được sinh vào năm Khang Hy thứ 32, khi đó vị nương nương họ Vương chỉ khoảng 20 tuổi. Từ năm 1684 – 1689, tức khoảng năm Khang Hy thứ 23 – 28, Khang Hy tuần thú phía nam qua Giang Tô và Chiết Giang, cũng là lần thứ 6 ông ta du ngoạn Giang Nam. Mỗi lần tuần thú phương Nam Khang Hy đều ghé quá các thành nổi tiếng như Tô Châu,… Từ ngày tháng sinh của vị con trưởng này có thể thấy vị nương nương họ Vương có thể là được mang vào cung trong lần tuần thú thứ hai xuống phía Nam. Giáo sư Dương Trân nói rằng những năm cuối đời Khang Hy sủng hạnh rất nhiều phi tần người Hán, đồng thời “là những cô gái tuyệt sắc vùng Giang Nam”. Cách nhìn này hoàn toàn không phải là những suy đoán chủ quan. Vì răng từ những cuốn sách của hoàng tộc như Ngọc điệp, Ái Tân Giác La tông phổ, Thanh sử cảo-Hậu phi truyện, Thanh hoàng thất tứ phổ,… chúng ta có thể thấy không ít những sự thực lịch sử liên quan như:
Tuổi gần thất thập vẫn còn phóng đãng Mặc dù Joachim Bouvet và Lý Quang có những ghi chép thuật lại việc Khang Hy không hề háo sắc nhưng chúng ta cũng phải nhìn tới những lời bàn của người nước ngoài đương thời về sự thưởng thức nữ sắc của vị hoàng đế này. Vào mùa xuân năm Khang Hy thứ 42, Hoàng đế thực hiện chuyến tuần du thứ năm xuống vùng Giang Nam. Khi trở về ông ta lệnh cho Cao Sĩ Kỳ người từng phục vụ trong thư phòng nhiều năm vốn đã nghỉ hưu từ Hàng Châu cùng ông ta trở về kinh thành. Tại Bắc Kinh, Cao Sĩ Kỳ được đối xử đặc biệt. Đặc biệt vinh hạnh là cuộc yến ẩm hoan lạc của ông ta với Hoàng đế tại hành cung Kinh Giao. Rồi có một ngày Cao Sĩ Kỳ “được triệu vào cung, để cùng thưởng thức tranh vẽ theo cách Tây phương”. Khang Hy đưa ra hai bức tranh, nói với Cao Sĩ Kỳ rằng: “Có ảnh của hai vị quý phi, vẽ rất giống, ngươi đã già, nhiều năm cung phụng, nhìn cũng không sao”. Hoàng đế Khang Hy đương nhiên là muốn khoe bức hình của vị cung phi tuyệt mỹ với người nô bộc trung thành. Cao Sĩ Kỳ khi đó đã già, cũng đã nhiều năm phục vụ Hoàng đế, cho ông ta nhìn một chút cũng không sao. Nhưng chính ở đây có thể nhìn thấy một hình ảnh của vị ngụy Hoàng đế háo sắc Khang Hy. Ngoài ra còn có một vị giáo sĩ người Ý là Matteo Ripa đến Trung Quốc truyền đạo, ông này vẽ rất giỏi, được Khang Hy biết tới vì thế mà lệnh cho ông ta phục vụ trong nội cung. Sau đó gọi ông ta đi thực địa ở sơn trang nghỉ mát Nhiệt Hà của vua để vẽ 36 bức tranh phong cảnh. Matteo vào năm đầu Ung Chính trở về Châu Âu đã viết một cuốn Hồi ức về 13 năm trong cung điện nhà Thanh. Trong cuốn sách này có ghi chép một đoạn về những cuộc vui chơi của vua Khang Hy và các phi tần ở sơn trang Nhiệt Hà, rất chân thực. Tôi xin trích một đoạn dưới đây: “Tại sơn trang Nhiệt Hà, tôi (tác giả) ở trong một căn phòng có vườn hoa đối diện với hồ nước. Ở bờ bên kia của hồ là một tòa biệt thự. Bệ hạ thường đi cùng các phi tần, đọc sách và học tập ở đó… Thông qua lỗ thông trên cửa giấy, tôi nhìn thấy bệ hạ đọc thư viết chữ… Có lúc, bệ hạ ngồi trên một chiếc ghế ngọc đặt ở trên cao xem trò chơi mà ông ưa thích. Mấy thái giám đứng đợi hầu hạ. Phía trước của ngai vàng là một tấm thảm, tập hợp toàn bộ phi tần. Đột nhiên bệ hạ thả một con rắn, một con cóc, những con vật khiến người ta sợ vào giữa các phi tần. Họ phải dùng chân nhảy lên để tránh né, bệ hạ rất vui vẻ…
Còn có lúc bệ hạ lại giả bộ muốn một quả chín ở trên cây vì thế buộc các cung nữ phải đến các quả núi bên cạnh để tìm hái về. Dưới sự thúc giục của vua, những kẻ thọt chân đáng thương tranh giành trước sau, họ leo lên núi rồi chạy xuống khiến cho có người bị ngã, làm cho hoàng thượng cười rất vui vẻ. Bệ hạ không ngừng nghĩ ra những trò chơi như vậy. Trong buổi tối mát mẻ của mùa hè, càng dễ thấy những trò chơi như thế. Bất kể là sống tại sơn trang hay kinh thành, bạn bè với Hoàng đế chỉ có phi tần và thái giám. Theo quan điểm của thế tục thì cuộc sống như vậy là hạnh phúc nhất nhưng theo cách nhìn của tôi đó là một cuộc sống dâm ô” Matteo là môn đồ của Thiên Chúa giáo, ông ta cho cuộc sống của Khang Hy “dâm ô” là điều dễ hiểu. Nhưng hành động này của Khang Hy đã nói rõ ràng ông ta rời kinh thành ra ngoài, rời bỏ cả văn võ bá quan, trong một hành cung nơi biên giới xa xôi sống cuộc sống phóng túng với những thê thiếp của mình. Một ông lão tuổi đã thất thập nếu không háo sắc sao lại có hứng thú với những trò chơi đó như vậy? Ngoài ra theo sự phân tích của giáo sư Dương Trân thì những người “chân thọt” mà Matteo ghi trong cuốn sách của mình rất có thể là những cô gái người Hán nên mới theo tục bó chân. Cách lý giải này có phần hợp lý và nó chứng minh rằng vào những năm cuối đời Khang Hy sủng ái một số lượng lớn những mỹ nữ gốc Hán và có thể là những mỹ nữ vùng Giang Nam. Sống buông thả làm cho sức khỏe trở nên trầm trọng Sự háo sắc của Khang Hy còn có thể tìm thấy những bằng chứng ở tình trạng sức khỏe của ông ta. Trong Thanh sử miêu tả rằng Khang Hy khi trẻ “gân cốt mạnh mẽ, có thể giương 15 cây cung, bắn 13 mũi tên cùng lúc”, “trời sinh đã tráng kiện, từ trước tới nay chưa hề bị bệnh”. Những ghi chép này đương nhiên có sự khoa trương nhưng vào thời gian Khang Hy đã qua độ tuổi 55 thì tình hình đã khác. Vào tháng 11 năm Khang Hy thứ 47, Khang Hy đã phê trong giấy mời dự tiệc của quan Tổng đốc Xuyên Hiệp là Tề Thế Vũ rằng: “Từ sau khi khanh đi, trẫm yếu đi rất nhiều, trong lòng cũng mang bệnh nặng… Vẫn nghĩ là không có gì đáng lo chỉ là sự hư nhược của cơ thể”. Vào tháng 12 năm đó, trong tấu sớ của tổng đốc Trực Lệ là Triệu Hoằng Nhiếp cũng tiết lộ tin tức tương tự như vậy, nói rằng Khang Hy “khí huyết không thể bình phục hoàn toàn, rất suy nhược”, “khí huyết hãy còn suy nhược”. Sang năm thứ 2 thì bệnh trạng dường như bình phục một chút nhưng “vẫn còn gầy ốm”. Đây cũng là năm Khang Hy vi phạm nguyên tắc dưỡng sinh của mình, uống rất nhiều rượu nho của phương Tây. Nguyên là Khang Hy nghe theo lời khuyên của giáo sĩ phương Tây, nên “mỗi ngày đều uống mấy lần rượu nho”, tin rằng rượu Tây là vật đại bổ. Có thể thấy rằng Khang Hy vì trị bệnh nên mới uống rượu. Nghe nói sau khi uống rượu nho, Hoàng đế “cảm thấy có ích, mỗi ngày đều uống nhiều hơn”. Nhưng tới cuối năm Khang Hy thứ 50, khi triều đình nhà Thanh theo lệ tổ chức lễ tế Thiên đàn hàng năm thì sức khỏe Khang Hy vẫn có vấn đề. Các vị đại thần ba lần bốn lượt dâng sớ mong muốn Hoàng thượng chủ trì đại lễ. Hoàng đế cũng cho đó là một nghi lễ trọng đại của triều đình “phải tự thân chủ lễ mới tỏ rõ thành tâm”, nên khăng khăng “đòi tự thân mình hành lễ”. Nhưng cũng nói, “khi hành lễ thì hai bên có người đỡ cũng được”. Vào năm này Khang Hy khoảng 67 tuổi, sự suy nhược của cơ thể đã thấy rất rõ. Vào năm Khang Hy thứ 56, cơ thể Hoàng đế đã thấy suy nhược nên vào tháng 5, Khang Hy nói: “Đến nay cơ thể trẫm vẫn chưa thấy khỏe, đi lại vẫn phải có người đỡ, đã suy nhược lắm rồi”. Đến tháng 10 thì Khang Hy đã rất thành thật nói với đại thần: “Tinh thần trẫm gần đây không được tinh anh như trước, dễ quên mọi việc, còn mắc bệnh loạn nhịp tim, mỗi lần cử động luôn thấy choáng váng”. Không lâu sau đó, Hoàng thái hậu mắc bệnh qua đời, bệnh tình của Hoàng đế Khang Hy càng thêm trầm trọng. Khi Khang Hy vào nội cung hành lễ trước quan tài của Hoàng thái hậu, phải “ngồi kiệu mềm, chân bị sưng tấy không di chuyển được, phải dùng khăn tay quấn kín mới có thể cử động”. Vào mùa xuân năm sau, Khang Hy cũng không phủ nhận thân thể mình đã “suy nhược hết mức, chỉ còn da và xương, chưa thấy bình phục, bệnh ở chân còn đau hơn trước, đi lại vô cùng khó khăn”. Khang Hy cũng nhắc tới việc ông ta khi đó “chân tay run rẩy, bộ mặt rất khó coi, hoặc gặp khi tim đập nhanh, gương mặt như biến đổi”. Mặc dù Hoàng đế Khang Hy bệnh nặng như vậy nhưng sinh hoạt tình dục của ông ta vẫn như trước kia. Bởi vì vào tháng hai năm đó Quý nhân họ Trần vẫn còn sinh đứa con cuối cùng của Khang Hy là hoàng tử thứ 35 . Đáng tiếc là vị hoàng tử này đã chết yểu điều này hẳn có liên quan đến sự suy nhược của Khang Hy những năm về già. Việc Khang Hy kết hôn sớm và có quá nhiều thê thiếp đối với sức khỏe của ông ta là việc không tốt. Đặc biệt là với sức khỏe suy nhược vào những năm cuối đời mà vẫn còn ham muốn sắc dục nên việc gây ra ảnh hưởng đối với sức khỏe là việc đương nhiên. Những triệu chứng xuất hiện vào năm cuối đời của Khang Hy như tay run, đầu choáng, mắt mờ… theo lý giải của Trung y chắc chắn là chứng thận nhược dương suy, cũng là những chứng bệnh thường mắc phải của những người quá đam mê sắc dục. Khang Hy là người hiểu biết cả Đông và Tây y, ông ta cũng là người hấp thu được rất nhiều phương pháp dưỡng sinh từ ba nhà Nho Phật Đạo, đáng tiếc “biết thì dễ mà làm thì khó”, nếu không thì tuổi thọ của ông ta sẽ còn cao hơn rất nhiều chứ không chỉ là 69 tuổi. Các học giả hiện đại viết sách về Khang Hy rất nhiều nhưng đề cập tới việc Khang Hy là một vị hoàng đế rất háo sắc thì ít ai nói tới. Bài viết của tôi chỉ muốn được miêu tả một cách chân thực về một phần cuộc sống của vị hoàng đế nổi tiếng trong lịch sử này mà thôi. Hy Văn (Vietimes) dịch từ China.com |
Khang Hy: vị Hoàng đế háo sắc nhất của vương triều Mãn Thanh (Phần I)
Thứ năm, 11/9/2008, 07:00 GMT+7 | |||||||||
Khang Hy là vị hoàng đế triều Thanh lâu nay luôn nhận được sự bình giá rất cao của các sử gia trong lịch sử. Người ta luôn coi Khang Hy là một hoàng đế lý tưởng của Nho giáo. Nhưng những phát hiện gần đây lại chứng minh điều hoàn toàn ngược lại. Khang Hy là một vị hoàng đế rất háo sắc, thậm chí là vị hoàng đế háo sắc nhất trong số các hoàng đế của vương triều này, hơn hẳn người cháu nổi tiếng phong lưu Càn Long. | |||||||||
Khi Hoàng Thái Cực chết lại có sự kiện Hiếu Trang Hoàng Hậu lấy Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn nhưng đương thời chuyện này đối với tập tục của người Mãn là rất bình thường. Rồi như chuyện các hoàng đế triều Thanh có tập tục khi cúng tế thần đều ăn thịt sống và nhảy tát man (một điệu nhảy của các bà đồng thời nguyên thủy). Cũng như tình nhân của Khang Hy Tô Ma Lạt Cô, 92 năm chưa từng tắm mà người này cũng chỉ sống khoảng 92 tuổi. Theo như quan niệm của chúng ta ngày nay thì rõ ràng đây là một phụ nữ không vệ sinh chút nào. Lại nói tới việc hoàng đế háo sắc, triều Minh, triều đại bị người Mãn tiêu diệt, cũng chỉ có Chính Đức hoàng đế nhưng hậu phi của vị hoàng đế này cũng không nhiều, chuyện phong lưu chẳng qua cũng chỉ có một mình Phượng nương. Ngoài ra cũng chỉ có vị hoàng đế này là dám hạ lệnh cho “góa phụ cải giá” đến nỗi hình thành lời ca dao nổi tiếng “căn nhà báo”. Gọi là “căn nhà báo” chỉ là bởi vì Chính Đức hoàng đế rất thích các nghệ sĩ dạy thú ở Tây Vực. Còn hoàng đế Mãn Thanh thì sao? Đa Nhĩ Cổn thực sự là con quỷ đói đối với sắc đẹp, Thuận Trị hoàng đế thì mê đắm nơi hậu cung, ngay đến vú em của con mình cũng không tha, mới sinh ra Ái Tân Giác La – Cơ Thụ. Đó là còn chưa kể hành vi loạn luân cùng cực của ông vua này ép chết em trai mình để chiếm đoạt em dâu khiến cho triều đình phải thay đổi cả lệnh cấm hành vi loạn luân “không được lấy chị dâu…” của Hoàng Thái Cực đã ban hành trước đó. Nhưng kỳ thực thì Hoàng Thái Cực cũng lấy cô ruột của mình, ngay từ đầu đã vi phạm vào điều cấm do chính mình ban hành nên cũng không trách được con cháu mình vi phạm lệnh cấm. Khang Hy thì không cần nói. Ông ta là vị hoàng đế có nhiều hậu phi nhất trong các vị vua triều Mãn Thanh mà đến một cung nữ giặt đồ cũng không bỏ qua mới sinh ra vị bát hiền vương nổi tiếng. Càn Long thì chỉ có thể hình dung bằng hai chữ dâm loạn. Sáu lần vi hành Giang Nam ông ta đã hoang dâm vô độ, vì những cô kỹ nữ Giang Nam mà hai lần phế bỏ hoàng hậu. Vua Hàm Phong (niên hiệu của vua Văn Tông đời Thanh (1851-1861)) cũng vì dâm loạn mà sớm mất ngôi. Hoàng đế Đồng Trị vì đi lầu xanh, mắc bệnh hiểm nghèo mà chết. Ung Chính Hoàng đế, vị hoàng đến mà bề ngoài được coi là rất giản dị, tiết dục kỳ thực cũng là một ngụy quân vương rất háo sắc. Trước khi tức vị Ung Chính chỉ có một thê một thiếp nhưng 8 người con 5 nam 3 nữ lại là do những người phụ nữ khác nhau sinh ra. Ông vua này nói một đằng làm một nẻo thực chất là để che giấu cuộc sống đạo đức giả tột cùng của mình. Sau này Ung Chính bạo tử, nguyên nhân có lẽ là do đã dùng “hồng hoàn” (một loại thuốc “hồi xuân” được các Hoàng đế Trung Quốc hay sử dụng - ND). Nếu Ung Chính Hoàng đế thực là người tiết dục thanh tâm sao phải dùng đến loại thuốc này?
Tới thời kỳ Khang Hy vẫn còn rất nhiều sự việc tương tự như vậy. Thanh đại ngoại sử có chép, trong thời kỳ Khang Hy trị vì có một vị cách cách là con út của Hoàng Thái Cực, em gái của Thuận Trị, xét về vai vế là cô ruột của Hoàng đế Khang Hy. Khi Thuận Trị đi tu, vị cách cách vì tuổi còn nhỏ nên chưa thể đi lấy chồng. Sau khi Khang Hy lên ngôi, vị cách cách này vẫn ở lại trong cung. Sau đó, có một vị đại thần thỉnh cầu cho cách cách này xuất giá. Khang Hy nghe xong nói: “Bây giờ mà còn bàn chuyện lấy chồng hay sao, ta đã nạp làm thiếp từ lâu rồi”. Vị đại thần này kinh ngạc nói: “Chốn cung đình là nơi nền tảng của vương hóa luân thường đạo lý không thể rối loạn. Nay công chúa ngang hàng với phụ thân hoàng thượng, hoàng thượng làm sao có thể lấy một người cô cùng họ làm phi được?”. Khang Hy Hoàng đế nói như không: “Chắc gì. Nói rằng cùng họ không được kết hôn là chỉ chị em gái của mẹ và con gái của mình mới không được kết hôn. Nếu như là cô thì không phải mẹ của ta cũng không phải là con gái của ta, cũng không phải là chị em gái cùng sinh với ta nếu nạp làm thiếp cũng không việc gì”. Các vị đại thần nghe xong vô cùng lo lắng, hết sức can ngăn nhưng Khang Hy đến cùng vẫn không nghe. Trong bộ phim Khang Hy vương triều có một Tô Ma Lạt Cô, sợ là do sự việc được ghi chép này được cải biên thành phim. Trong lịch sử các Hoàng đế Trung Hoa, Khang Hy là vị Hoàng đế có khả năng tính dục mạnh mẽ nhất. Ông ta có tới 52 người con trai, thực là ít thấy, so với khả năng sinh sản của động vật vẫn còn mạnh hơn. Cả đời Khang Hy rất khỏe mạnh, đến những năm cuối đời mà khí lực vẫn không suy giảm bao nhiêu so với độ tráng niên, còn sự háo sắc thì người đương thời khó ai bì kịp. Đến một năm mừng thọ Thái hậu, Hoàng đế hạ lệnh tất cả các phu nhân người Hán cũng như người Mãn đều phải vào cung chúc thọ một lượt. Tất nhiên những người phụ nữ nhà họ Trương và nhà họ Diêu cũng chuẩn bị công phu, mặc triều phục vào cung chúc thọ thái hậu. Khi đó, Khang Hy cũng có mặt trong buổi lễ, Hoàng Thái hậu rất vui, sai bày yến tiệc trong nội cung để cho mọi người được ăn uống vui chơi cho đến hết ngày mới về.
Sau khi rời khỏi cung, những người phụ nữ này ngồi kiệu về nhà. Những người khác đều về nhà an toàn, chỉ có một nhà là nảy sinh vấn đề. Đó chính là người vợ xinh đẹp của ông quan họ Trương. Khi về tới nhà thì bộ y phục vẫn là bộ y phục ban đầu nhưng khuôn mặt đã khác, áo mũ cũng không chỉnh tề, không còn là người phụ nữ lúc đi nữa. Họ Trương và họ Diêu đều biết là việc gì đã xảy ra nhưng sợ gặp họa nên không dám nói nhiều. Cái lệ các mệnh phụ người Hán nhập cung cũng vì thế mà bị cấm chỉ. Trước đây, người ta cho rằng vị Hoàng đế háo sắc nhất của triều đại Mãn Thanh là Càn Long nhưng sau đó mới biết Khang Hy mới thực là kẻ háo sắc. Ông ta có tới 55 bà vợ được ghi chép chính thức trong các chính sử. Trong đó có một người họ Vệ chỉ là một phụ nữ giặt quần áo người Hán khi đang giặt đồ thì bị Khang Y để ý đến. Nghe nói vị Lương phi này “sắc đẹp số 1 trong nội cung, được sủng hạnh vô cùng” mà “trên người có mùi hương lạ, tắm cũng không mất”. Khang Hy cũng được coi là môn đệ của Đạo gia, hấp thu đúc rút rất nhiều kinh nghiệm dưỡng sinh từ ba nhà Nho Phật Đạo. Trong sở thích cá nhân của mình Hoàng đế Khang Hy vốn rất thích hút thuốc, sau đó bị cảnh báo đồng thời để phòng chống hỏa hoạn nên mới thôi không hút thuốc. Ông ta cũng vì thế mà có sự thuyết minh rằng: “…Như hút một điếu thuốc tuy không quan hệ quá nhiều nhưng hỏa hoạn bốc lên đa phần là do vì thế cho nên trẫm lúc nào cũng cấm. Trẫm vốn không phải là không biết hút thuốc, khi còn nhỏ dưỡng mẫu rất thích hút thuốc. Nay cấm rồi mà vẫn dùng sẽ bị bắt đi lính như thế sẽ không còn ai dùng nữa”. Ông ta cũng có thể uống rượu nhưng muốn khống chế tửu lượng của mình thật là rất khó. Ông ta từng nói với con cháu rằng: “Trẫm từ nhỏ không thích uống (rượu) nên có thể uống mà không uống. Bữa cơm ngày thường hoặc gặp ngày lễ tiết trong năm cũng chỉ uống một cốc nhỏ. Người mà uống một chút rượu là đã không còn nghe thấy gì nữa là người không phải sinh ra để uống rượu. Như trẫm có thể uống được mà không uống, ngay từ đầu đã thành thật muốn trở thành một kẻ không uống. Nếu để cho thèm rượu thì tâm trí sẽ bị loạn mà trở nên ngu tối, hoặc dẫn tới bệnh tật, thật là một thứ chẳng ích gì cho con người. Cho nên trước sau đều coi cấm rượu là giới luật quan trọng”. Khang Hy thậm chí cho rằng sự nguy hại của rượu là rất lớn “các bậc quyền quý giàu sang, lụn bại phá sản, thân mắc trọng bệnh cũng đều là do đó, mà những kẻ nghèo túng được mấy chữ cũng tận lực say hành hung kẻ khác mới gặp họa”. Còn nói: “Không ghét việc vui thú với rượu, trong tâm luôn có sự cuồng loạn, dần dần hình hài sẽ đảo loạn, lễ pháp cũng không còn, sẽ làm hỏng đức tốt, lời nào khuyên nhủ được”. Có thể thấy ông ta đối với rượu rất cố gắng để loại trừ và khống chế để tránh hậu hoạn sau này, coi đó là kế dưỡng sinh. Do chú trọng dưỡng sinh Khang Hy Hoàng đế đương nhiên nghiên cứu “tiết dục lòng trong”. Ông ta cho rằng “Con người ta nếu để lòng thanh thản và tiết chế được dục vọng thì không chỉ có thể ít lo bệnh tật mà còn luôn tươi trẻ”. Đồng thời ông ta cũng kiên định tin rằng “Ít suy nghĩ có thể dưỡng thần, ít ham muốn có thể dưỡng tinh thần, ít nói có thể dưỡng khí, biết được những điều này thì có thể dưỡng sinh”. Từ những lời nói này của Khang Hy chúng ta không khó để nhìn thấy Khang Hy đương nhiên không phải là môn đồ của những kẻ háo sắc. Ông ta biết rằng nên “giới hạn ở sắc dục”. Ngoài ra, Khang Hy nổi tiếng là vị hoàng đế không háo sắc dường như chính là từ quan niệm của người đương thời. Không ít người đã ca tụng ông ta như vậy. Giống như vị giáo sĩ phương Tây Joachim Bouvet đã gửi một bức thư dài cho Hoàng đế nước Pháp nói rằng:
“Tuần phủ Giang Đông Cát Lễ, nghênh giá ở Khánh Đô, dẫn đầu dân chúng mời thánh giá (Hoàng đế), … Cát Lễ cũng dâng bốn mỹ nữ lên, Khang Hy nói: “Dùng mỹ nữ để lung lạc ta, coi ta là người thế nào đây?”. Sau đó còn phái người bí mật điều tra mới biết những người bên cạnh mình đều được tặng món quà như vậy, càng biết thêm tội”. Việc ghi chép như trên rõ ràng là một hành vi nịnh bợ để cường điệu việc Khang Hy trong mắt người trong và ngoài nước là một vị Hoàng đế không biết háo sắc là gì. Nhưng căn cứ vào những sử liệu và nghiên cứu gần đây, chúng tôi có lý do để cho rằng Hoàng đế Khang Hy hoàn toàn không phải là kẻ theo Đạo gia như người ta xưng tụng trước nay, đặc biệt là về sự háo sắc. Vì vậy nên chăng có một cuộc thảo luận hay chí ít là nên nghiên cứu một cách kỹ lưỡng hơn về vị hoàng đế này. Dưới đây là cách nhìn của chúng tôi: Số lượng hậu phi đông nhất trong số các vị Hoàng đế triều Thanh Số hậu phi, quý nhân được Khang Hy chính thức lấy, sau này được chôn theo lăng mộ của ông ta vào khoảng 55 người. Còn những người từng được ông ta “sủng hạnh” một lần hoặc là những cô gái được gọi vào cung phục vụ thì tổng số càng “khả quan” hơn. Sau khi Khang Hy chết, Hoàng đế Ung Chính hạ lệnh cho quan viên phủ nội vụ phải cẩn trọng trong việc an táng Khang Hy. Trong chỉ dụ có đoạn nói: “Nay nghe việc tổng quản tâu về việc của Dịch quý phi, dường như việc nhập lăng của quý phi vẫn có thể. Lăng mộ có quan hệ cả thế đất phong thủy, vì thế các người phải đặc biệt suy xét. Nếu như những quý nhân được phụng sự hoàng thượng có thể. Sao những người thường phong thì không thể”. Gốc gác vị Dịch quý nhân này không rõ ràng, rất có thể là nô bộc hoặc là người Hán. Cô ta chưa từng sinh con, năm Ung Chính thứ 6 (1728) thì qua đời, sống 70 tuổi. Do đó có thể biết chính xác rằng có không ít những cung nữ từng được vua “sủng hạnh” một lần mà địa vị không cao hoặc là chưa được gia phong cuối cùng đều không được mai táng trong lăng mộ của Khang Hy. Nhưng chắc chắn là họ đã từng được Khang Hy “sủng hạnh”. Vì thế thê thiếp của Khang Hy chắc chắn là nhiều hơn con số 55. Xem lại toàn bộ tình hình hôn nhân của các vị Hoàng đế triều Thanh, căn cứ vào ghi chép của sử liệu, số lượng thê thiếp mà các vị vua triều Thanh đã lấy cụ thể như sau: Nỗ Nhĩ Hợp Xích có 16 bà vợ hoặc nhiều hơn một chút. Hoàng Thái Cực có 15 bà vợ hoặc hơn một chút. Ai Tân Giác La – Phúc Lâm thì những người được gọi là thê thiếp có khoảng 16. Ung Chính Hoàng đế Dận Chân chỉ có 8 người. Càn Long Hoàng Đế Hoằng Lịch thì có 41 hậu phi. Gia Khánh Ngung Diễm, xem qua sử sách thì có khoảng 9 người hậu phi. Đạo Quang Hoàng đế Mân Ninh thì ước tính có khoảng 23 bà hậu phi. Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự cho đến Tuyên Thống Hoàng đế Phổ Nghi số thê thiếp không quá 10 người. Từ đó có thể thấy, số lượng hậu phi của Hoàng đế Khang Hy là đứng số một trong số các vị Hoàng đế của triều Thanh. Mặc dù có người nói các Hoàng đế cổ đại luôn có tư tưởng muốn hưởng lạc mà Khang Hy thống trị trong một thời gian dài thì đương nhiên phải có nhiều thê thiếp. Cách giải thích này tuy có chỗ hợp lý nhưng người kế vị Khang Hy là Ung Chính cũng chỉ có 8 bà vợ. Đến cháu ông ta, vị vua nổi tiếng dâm đãng phong lưu trong mắt dân chúng là Càn Long, so về thời gian thống trị (tính cả ba năm Càn Long làm Thái thượng hoàng) còn dài hơn rất nhiều so với Khang Hy mà cũng chỉ có 41 bà vợ. So về tổng số vẫn còn kém xa so với ông mình là Hoàng đế Khang Hy. Khang Hy nếu như không háo sắc vì sao lại có hứng thú với việc nạp thê thiếp đến như vậy. Đó là chưa kể đến việc rất nhiều bà vợ của Khang Hy được nhập cung vào những năm cuối đời của vị Hoàng đế này. Trong xã hội trung đại Trung Quốc, một người luôn coi mình là môn đệ của Đạo gia như Khang Hy cho đến cuối đời vẫn hết lần này đến lần khác lấy thê nạp thiếp, như thế chẳng phải là háo sắc hay sao? Hy Văn (Vietimes) dịch từ China.com |
Bước quân hành "độc nhất vô nhị" của tướng quân Nguyễn Sơn (Phần II)
Thứ ba, 21/10/2008, 07:00 GMT+7 | ||||
Nguyễn Sơn được mô tả là người có đôi mắt to, đen nhánh, lông mày rậm, thân hình rắn chắc, giọng nói vang ngân. Không chỉ là vị chỉ huy bản lĩnh, uy quyền, dày dạn trận mạc mà Nguyễn Sơn còn là nhà văn hóa với vốn kiến thức sâu rộng, tài diễn đạt tinh tường. | ||||
Mê Kiều Ông viết nhanh, viết hay và hùng biện tài tình, đầy sức thuyết phục. Đàn giỏi, hát hay, làm thơ, viết văn đối với một tướng trận đã là khó, Nguyễn Sơn còn viết kịch và dàn dựng kịch phục vụ chiến trường. Thời trường chinh kháng Nhật ở nước bạn, ông là một trong những người thành lập Đoàn kịch Công Nông - đoàn kịch đầu tiên của quân đội nhân dân Trung Hoa. Thời gian đứng đầu Liên khu 4, Nguyễn Sơn đã biến vùng đất “lửa” này thành trung tâm văn hóa sinh động, phục vụ đắc lực cho kháng chiến chống Pháp. Theo chính sách đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Mạnh thường quân” Nguyễn Sơn đã tập hợp đông đảo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ nổi tiếng và tạo điều kiện cho họ cống hiến tài năng cho đất nước. Có thể kể đến những tên tuổi lừng danh từng có một thời đẹp đẽ dưới “trướng” vị tướng tài hoa Nguyễn Sơn như: Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tuân, Bửu Tiến, Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Đình Nghi, Chu Ngọc, Nguyễn Tiến Lãng, Hữu Loan, Phạm Duy, Thanh Châu, Trần Mai Ninh, Phùng Quán, Văn Chừng, Nguyễn Văn Thương, Đình Quang, Đoàn Chuẩn, Trần Hoàn, Sỹ Ngọc, Phạm Đình Chương... Nguyễn Sơn rất yêu thích các bộ môn nghệ thuật truyền thống và cũng am hiểu sâu sắc nhiều nền văn hóa khác, nhất là văn hóa Trung Hoa. Ông hết lòng ủng hộ các nghệ nhân Nguyễn Đình Nghi, Cả Tam trong việc củng cố, xây dựng bộ môn tuồng, chèo cổ. Trong hàng trăm cuộc diễn thuyết văn nghệ của mình, ông đặc biệt thích thú khi nói về đề tài Địa vị và giá trị truyện Kiều của Nguyễn Du. Có lần, mấy ngày liên tiếp, tướng Nguyễn Sơn đã đối thoại “tay đôi” với các nhà nghiên cứu và văn nghệ sĩ về vở kịch nổi tiếng Lôi Vũ của nhà văn Trung Quốc Tào Ngu. Là dịch giả Lôi Vũ và trực tiếp tham gia cuộc đối thoại ấy, nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai phải ngạc nhiên: “Nguyễn Sơn nói chuyện về Lôi Vũ sâu sắc, đầy đủ hơn cả bản thân người dịch tác phẩm ấy”. Nhà văn Cửu Thọ kể rằng, một lần đến thăm trường thiếu sinh quân, tướng Nguyễn Sơn cho tập hợp học viên ở đình làng để ông nói chuyện. Lấy chiếc mũ bê-rê có quân hiệu đang đội để xuống bàn, vị tướng bảo: "Hôm nay chúng ta không nói chuyện quân sự mà nói chuyện văn học. Tôi sẽ trình bày về Truyện Kiều". Và ông nói một cách say sưa, hấp dẫn về áng văn bất hủ của Nguyễn Du bằng xúc cảm tinh tế, sâu sắc. Tướng Nguyễn Sơn tâm sự rằng: "Trong những ngày tham gia Vạn lý trường chinh, khi vượt qua những rặng núi tuyết lạnh thấu xương, mỗi lần tôi ngâm lên vài câu Kiều là thấy lòng mình ấm lại, là có thêm nghị lực để vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ". Mười hai chữ ân tình! Năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh phong tướng đầu tiên cho các cán bộ chỉ huy cao cấp của quân đội. Hàm Đại tướng cho ông Võ Nguyên Giáp - tổng tư lệnh. Hàm Trung tướng cho ông Nguyễn Bình - tư lệnh Nam Bộ. Hàm Thiếu tướng cho các ông: Hoàng Văn Thái - tổng tham mưu trưởng, Trần Đại Nghĩa - cục trưởng Cục Quân giới, Văn Tiến Dũng - cục trưởng Cục Chính trị, Nguyễn Sơn- khu trưởng Khu 4, Chu Văn Tấn - khu trưởng Khu 1, Hoàng Sâm - khu trưởng Khu 2, Trần Tử Bình - chính ủy Trường Lục quân Việt Nam, Lê Thiết Hùng - tư lệnh kiêm chính ủy Bộ Tư lệnh pháo binh. Khi nhận tin mình chỉ được phong quân hàm Thiếu tướng, có lẽ Nguyễn Sơn chẳng mấy vừa lòng. Như thấu hiểu điều đó, một ngày của năm 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đại diện Chính phủ vào Liên khu 4 làm lễ tấn phong quân hàm Thiếu tướng cho Nguyễn Sơn. Rất hiểu tâm tính người học trò mình, Hồ Chủ tịch đã gởi kèm theo tấm danh thiếp. Bên ngoài phong bì ghi: Gởi Sơn đệ (chú Sơn). Mặt trước danh thiếp: Hồ Chí Minh. Mặt sau danh thiếp là bốn dòng chữ Hán viết nắn nót: Đảm dục đại Tâm dục tế Trí dục viên Hành dục phương (Gan nên lớn, tâm nên tế nhị, trí nên thấu đáo, hành động nên đúng đắn, ngay thẳng.) Mười hai chữ này Hồ Chủ tịch trích từ câu nói của Tôn Tử Mạo, nhắc nhở học trò mình: “Đảm dục đại nhi tâm dục dục tiểu, trí dục viên nhi hạnh dục phương, niệm niệm như lâm địch nhật, tâm tâm thường tự quá kiêu thì”. Nhận lệnh phong tướng cùng tấm danh thiếp, Nguyễn Sơn hết sức xúc động và suy nghĩ nhiều. Vị tư lệnh lừng danh ấy đã tâm sự với chiến hữu rằng: Từ xa ngàn dặm, với mười hai chữ ngắn gọn, ông Cụ đã gởi cho mình một bài học sâu sắc, một món quà hiếm quí, khiến mình phải suy nghĩ lại nhiều điều. Chỉ có mười hai chữ ấy thôi sao nó lay động tâm tư mình đến thế, và sao Bác ân cần cặn kẽ thế! Thật là uyên thâm, thật là chí tình... Tháng 9 năm 1937, sau sự kiện quân Nhật gây hấn ở Lư Cầu Kiều, Hồng Thủy gặp cô giáo tiểu học Trần Ngọc Anh bấy giờ là chủ tịch Hội phụ nữ kháng Nhật ở Sơn Tây, Trung Quốc. Tình yêu đến. Ngày một nồng thắm. Vào mùa xuân 1938, Hồng Thủy - Ngọc Anh kết bạn trăm năm ngay trên chiến trận. Đám cưới đơn sơ nhưng trang trọng. Duyên tình của họ được xem là cuộc hôn nhân đầu tiên trong hàng ngũ Bát lộ quân Trung Hoa. Các lão tướng Hồng quân khen Hồng Thủy... dân vận giỏi! Theo đề nghị của Hồng Thủy, Ngọc Anh đổi tên thành Trần Kiếm Qua. Đầu năm 1941, bà mang thai đứa con đầu lòng, lúc đang cùng chồng công tác ở Phân hiệu 2 Đại học kháng chiến thuộc chiến khu địch hậu kháng Nhật - Tấn Sát Ký. Tháng 8 năm 1941, Nhật đem 13 vạn quân tấn công chiến khu Tấn Sát Ký. Hồng Thủy được lệnh trực tiếp chỉ huy phá vòng vây, sơ tán. Trần Kiếm Qua cải trang ở lại. Đến tháng 10 năm 1941 vợ chồng sum họp bên đứa con mới mở mắt chào đời giữa đạn bom. Nhưng Trần Kiếm Qua bị bệnh nặng. Đứa con sớm yểu vong giữa môi trường sống khắc nghiệt ! Mùa hè năm 1943, vợ chồng cùng được về Diên An học ở Trường Đảng Trung ương, mở đầu cho hai năm thực sự hạnh phúc bên nhau của họ. Đứa con thứ hai mang tên Tiểu Phong đã ra đời. Đến tháng 8 năm 1945 giữa lúc Trần Kiếm Qua mang thai đứa con thứ ba, đặt tên Tiểu Việt, thì Hồng Thủy được lệnh trở về Việt Nam theo thỏa thuận giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Chủ tịch Mao Trạch Đông. Hồng Thủy đổi tên thành Nguyễn Sơn. Đang công tác ở Liên khu 4, ông chợt nghe tìn Hồ Tông Nam xua quân tấn công thủ đô kháng chiến Diên An. Hồng đô thất thủ. Vợ con ông bên Trung Quốc đã ngã xuống trong máu lửa... Nguyễn Sơn vô cùng đau buồn ! Rồi một thời gian sau, tướng Nguyễn Sơn phải lòng cô Lê Hằng Huân, một nữ sinh xinh đẹp tòng quân kháng chiến hết sức hâm mộ vị tướng tài hoa. Họ thành hôn và có với nhau hai mặt con. Về sau sang Bắc Kinh họ sinh thêm hai đứa con nữa. Như vậy, hai người vợ đã sinh hạ cho tướng Nguyễn Sơn tất thảy bảy đứa con. Năm 1950, Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc, khi đại lục vừa được hoàn toàn giải phóng. Điều bất ngờ là Trần Kiếm Qua vẫn còn sống, nuôi dưỡng hai con và... chờ chồng! Bà được giao nhiệm vụ Viện trưởng Viện hài nhi 1/6 của Bắc Kinh, rồi Phó cục trưởng Cục Giáo dục Bắc Kinh. Hồng Thủy - Trần Kiếm Qua vui mừng sum họp trong ngang trái sau năm năm xa cách. Giữa lúc Hồng Thủy đang khó xử, thì Trần Kiếm Qua đề nghị đưa bà Lê Hằng Huân cùng các con từ Việt Nam sang sống chung với ông... Còn phần mình, Trần Kiếm Qua quyết định thế nào? Bà cương quyết ở vậy nuôi hai con Tiểu Phong, Tiểu Việt trưởng thành, không nghĩ đến chuyện tình cảm riêng tư của bản thân mình nữa! Khi Hồng Thủy vĩnh biệt Trung Hoa về lại Việt Nam, Trần Kiếm Qua cũng không đưa tiễn. Bà sợ ông mang tiếng là có hai vợ. Đối với Tiểu Phong và Tiểu Việt, bà Trần Kiếm Qua chỉ nói rằng cha của chúng đang tham gia "Kháng Mỹ viện Triều". Cho đến tháng 01 năm 1974, bà mới thổ lộ sự thật cho các con và khuyên nên sang Việt Nam tảo mộ cho cha, thăm mẹ Lê và các em. Năm 2000, bà có cho xuất bản quyển tự truyện Hoàng Hà nhớ- Hồng Hà thương sau khi lần đầu về thăm quê chồng Việt Nam năm 1998. Khi tướng Nguyễn Sơn qua đời, bà Lê Hằng Huân mới ba mươi tuổi, sống đơn độc nuôi bốn con nhỏ nên người. Ngày đón Tiểu Phong, Tiểu Việt sang Việt Nam viếng mộ cha, bà nắm tay họ nói trong nước mắt: "Trước khi nhắm mắt, cha của các con mong có ngày sáu đứa con Việt - Trung được sum họp bên nhau. Ngày đó bây giờ đã đến !". Những năm tháng cuối cùng Năm 1950, theo đề nghị của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã đồng ý để Nguyễn Sơn sang Trung Quốc lần thứ ba làm nghĩa vụ quốc tế. Sau khi học bồi dưỡng ngắn hạn ở Học viện quân sự Nam Kinh, Hồng Thủy làm cố vấn cho Quân ủy Trung ương chi viện cho Việt Nam đánh Pháp, rồi tham gia cuộc chiến đấu “Kháng Mỹ viện Triều”. Ông cũng lần lượt được giao các nhiệm vụ: phó cục trưởng Cục điều lệnh Bộ tổng giám huấn luyện, tổng biên tập tạp chí Huấn luyện chiến đấu,... và được phong quân hàm Thiếu tướng tháng 9 năm 1955 trong đợt phong quân hàm đầu tiên cho các vị “khai quốc tướng soái” của nước Trung Hoa mới. Mùa hè năm 1956, căn bệnh ung thư phổi hậu kỳ của tướng Hồng Thủy phát nặng... Biết bệnh tình không thể qua khỏi, Hồng Thủy xin được về Tổ quốc. Chủ tịch Mao Trạch Đông tức tốc trao đổi với Chủ tịch Hồ Chí Minh, rồi cùng Thủ tướng Chu Ân Lai đón tiếp đặc biệt ân cần tướng Hồng Thủy tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh. Ba chiến hữu từng sát cánh bên nhau trong Vạn lý trường chinh bi thương và oanh liệt, Mao Trạch Đông - Chu Ân Lai - Hồng Thủy, may mắn còn sót lại, đã ôm nhau khóc nức nở trước khi từ biệt để một trong ba người vĩnh viễn ra đi! Nguyên soái Diệp Kiếm Anh cùng nhiều tướng soái khác cũng có mặt. Rồi đích thân Nguyên soái Bộ trưởng quốc phòng Bành Đức Hoài tổ chức chỉ đạo chuyến hồi hương cho tướng Hồng Thủy. Ngày 21 tháng 10 năm 1956, nghĩa là chỉ hai mươi ngày sau khi trở về nơi chôn nhau cắt rốn, tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội, tướng Nguyễn Sơn đã ung dung trút hơi thở cuối cùng, kết thúc một cuộc đời lừng lẫy nửa đầu thế kỷ XX ở phía chân trời phương Đông đầy biến động. Nhân dân và đồng đội từ Việt Nam đến Trung Hoa ngậm ngùi thương tiếc. Hồ Chủ tịch đến tận nơi đặt vòng hoa vĩnh biệt người học trò xuất sắc của mình. Từ đó, mỗi lần sang thăm Việt Nam, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều đến viếng mộ Hồng Thủy. Tên ông được đưa vào từ điển tướng soái Trung Hoa. Trong cuốn Truyện ba trăm danh tướng của Trường quân sự Hoàng Phố do nhà sử học Vương Vĩnh Quân biên soạn, xuất bản tháng 6 năm 1989 ở Quảng Tây, tác giả đã dành gần hai trang viết về danh tướng Hồng Thủy một cách trân trọng. Rồi trong cuốn Những người bạn nước ngoài của Trung Quốc, xuất bản năm 1993 tại Bắc Kinh, tướng Hồng Thủy cũng được ca ngợi đặc biệt như Borodin của Liên Xô... Tháng 9.2003, Hãng phim Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Hãng phim Châu Giang, Trung Quốc thực hiện bộ phim Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn, để tưởng nhớ một con người huyền thoại đã có đóng góp lớn lao vào tình hữu nghị giữa hai nước từ khi còn chìm trong khói lửa chiến tranh giải phóng dân tộc. Phan Hoàng |
Thứ Hai, 20 tháng 10, 2008
Bước quân hành "độc nhất vô nhị" của tướng quân Nguyễn Sơn (Phần I)
Thứ sáu, 17/10/2008, 07:00 GMT+7 | ||||
Trong lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam buổi đầu lập quốc có hai danh tướng có số phận hết sức đặc biệt, đó là Nguyễn Bình và Nguyễn Sơn. Trong kháng Pháp, nếu như tướng Nguyễn Bình là thủ lĩnh quân sự ở Nam Bộ thì tướng Nguyễn Sơn là thủ lĩnh ở Trung Bộ. Sau một thời gian dài gần như không được nhắc đến, gần đây tên tuổi và công nghiệp của hai ông đã xuất hiện trên một số sách báo. Vừa qua, lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của hai ông cũng đã được tổ chức trang trọng. Riêng Nguyễn Sơn, tên thật Vũ Nguyên Bác, bí danh Hồng Thủy, sinh ngày 01.10.1908 ở làng Kiêu Kỵ thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. | ||||
Mang chí khí ngang tàng cùng lòng yêu nước sôi sục, Nguyễn Sơn từ bỏ danh vọng trước mắt, sang Quảng Châu hoạt động cách mạng dưới sự dẫn dắt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, rồi trở thành danh tướng “độc nhất vô nhị”: được cả hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc phong tướng, và là vị tướng nước ngoài duy nhất của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Chẳng những là nhà quân sự bẩm sinh, mà ông còn là nhà văn hóa uyên thâm, từng biên soạn, dịch thuật xuất bản mười hai tác phẩm giá trị trên nhiêu lãnh vực; thu phục dưới “trướng” mình đông đảo các nhà trí thức, văn nghệ sĩ tài năng. Vị anh hùng của Vạn lý trường chinh Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn Thời niên thiếu, Vũ Nguyên Bác hay còn gọi Vũ Hồng Tú đã từng có dịp lưu học ở kinh đô ánh sáng Paris của nước Pháp và gặp gỡ Nguyễn Ái Quốc. Nền văn hóa phương Tây với vẻ hoành tráng độc đáo của nó bước đầu thâm nhập tâm hồn cậu bé phương Đông vốn được dạy dỗ trong khuôn phép. Năm 1925, chàng trai Vũ Nguyên Bác đột ngột bỏ trường sư phạm Bắc Kỳ, bí mật sang Quảng Châu, Trung Quốc. Bạn bè ngạc nhiên. Gia đình không hề hay biết. Với bí danh Lý Anh Tự, chàng trai Hà Nội yêu nước đã cùng Lý Tự Trọng, Lý Tống (Phạm Văn Đồng),... được Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc) truyền thụ lý tưởng cách mạng, bắt đầu thực thi giấc mộng tang bồng cho thỏa chí nam nhi. Bấy giờ, Lý Thụy là thư ký của Borodin bạn thân Tôn Trung Sơn. Nhờ sự giới thiệu của Lý Thụy, Lý Anh Tự cùng hai mươi thanh niên Việt Nam nữa vào học khóa bốn trường quân sự Hoàng Phố (do Tôn Trung Sơn sáng lập năm 1924) và tỏ rõ là học viên rất xuất sắc. Bằng sự cần cù và trí thông minh hiếm có, vị tướng tương lai đã tự học và sử dụng dần thông thạo bốn ngoại ngữ Pháp, Anh, Hoa, Nga. Đồng thời, ông cũng tốt nghiệp khóa hai lớp huấn luyện cán bộ thanh niên cách mạng Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Tháng 8 năm 1927, Nguyễn Sơn gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Dưới cái tên mới Hồng Thủy, ông trở thành chiến sĩ quốc tế trong quân đội nhân dân Trung Hoa, tham gia cuộc khởi nghĩa Quảng Châu do Trương Thái Lôi và Diệp Đình lãnh đạo. Khởi nghĩa thất bại, Hồng Thủy bí mật sang Thái Lan làm công tác Việt kiều. Đến năm 1929, ông mới trở lại Trung Quốc, hoạt động ở Quảng Đông, tham gia năm cuộc chiến chống "vây tiễn" của quân đội Quốc dân đảng tấn công Hồng quân. Hóa thân vào cuộc Vạn lý trường chinh vĩ đại trong mười năm, “Từ Giang Tây lên Thiểm Cam Ninh - Ăn tuyết nằm sương mặt đầy máu bụi”, tài năng Nguyễn Sơn đã bộc lộ một cách thuyết phục. Các chiến hữu thân cận phải thốt lên rằng: “Hồng Thủy mà nói thì đến con kiến trong lỗ cũng phải bò ra...”. Tài diễn thuyết của ông thu phục hàng triệu nhân tâm, bằng nghệ thuật hùng biện, kiến thức lịch sử - văn hóa thâm hậu và sự am tường các thổ ngữ, phương ngôn lẫn phong tục người dân từng vùng. Khởi đầu cuộc trường chinh gian khổ và máu lửa với 72 vạn Bát lộ quân, từ Hoa Nam lên Hoa Bắc, đánh hàng trăm trận với quân Tưởng; đến khi kết thúc trong hào quang chiến thắng chỉ còn lại 7,2 vạn quân. Nghĩa là chín phần mười quân số đã vĩnh viễn ngã xuống. Nhờ tài trí khác thường, Hồng Thủy mới may mắn tồn tại sau nhiều lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Một lần trên đường hành quân đến Tây Khang, đơn vị của Hồng Thủy bị đánh tơi bời trước quân địch đông bội phần. Nhiều chiến sĩ hy sinh. Đội ngũ tan tác. Hồng Thủy đơn phương độc mã tìm cách lặn lội về Diên An. Với tài ăn nói, am hiểu nhiều thổ ngữ, tinh thần lạc quan xem thường gian khổ, ông kiên trì kiếm sống bằng nhiều nghề khác nhau để cuối cùng về đến thủ đô kháng chiến Diên An sau hơn một năm lưu lạc trước sự ngạc nhiên, khâm phục, mừng vui của đồng đội.
Ông cũng được những nhà lãnh đạo cao cấp nhất hết sức trọng vọng. Trong những lần điều động Nguyễn Sơn trở về Việt Nam hay sang lại Trung Quốc công tác, đích thân Chủ tịch Mao Trạch Đông đã điện đàm, thư từ với Chủ tịch Hồ Chí Minh để bàn bạc, trao đổi. Và cũng chính Chủ tịch Mao Trạch Đông đã phát hiện sơ suất khi phong hàm Thiếu tướng cho Nguyễn Sơn chỉ ở cấp sư đoàn chính quy. Gặp Nguyễn Sơn ở Thiên An Môn, hỏi chuyện, Chủ tịch Mao Trạch Đông nhận biết sai lầm và liền đính chính, phong cho vị “khai quốc công thần” hàm Thiếu tướng cấp quân đoàn chính quy. Một vinh dự đặc biệt xứng đáng với tầm vóc người chiến binh quốc tế huyền thoại, từng sát cánh với mình vào sinh ra tử. Thủ lĩnh tài hoa của Liên khu 4 Cuối năm 1945, Nguyễn Sơn về lại Việt Nam sau hai mươi năm xa cách. Đây là thời điểm ông chính thức lấy tên Nguyễn Sơn thay cho tên Hồng Thủy. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và giao trọng trách cho người học trò năm xưa của mình: xây dựng và lãnh đạo quân đội lẫn chính quyền trên toàn dải đất Trung Bộ. Nguyễn Sơn lên đường, với hoài bão lớn cống hiến hết sức mình cho Tổ quốc. Và ông đã không phụ lòng tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng mong đợi ở mình. Chỉ trong bốn năm ngắn ngủi. Nguyễn Sơn đã lập kế hoạch và thực thi cả hàng núi công việc: tổ chức, xây dựng và lãnh đạo căn cứ địa cùng các lực lượng vũ trang chính quy lẫn dân quân du kích địa phương, hậu phương quân đội, chính quyền kháng chiến đến tận cơ sở. Đồng thời, Nguyễn Sơn còn mở trường huấn luyện, đào tạo cán bộ phục vụ kịp thời cuộc kháng Pháp; tổ chức các cuộc đánh trả, tấn công làm tiêu hao và ngăn chặn bước tiến quân địch, bảo vệ các vùng tự do; giáo dục, tuyên truyền, giác ngộ và dần nâng cao đời sống văn hóa lẫn vật chất cho quần chúng cách mạng trong hoàn cảnh kháng chiến muôn vàn gian khổ. Theo tướng Lê Tự Đồng, Đại hội tập toàn quân ở khu 4 vào thời kỳ này, là một sáng tạo độc đáo của tướng Nguyễn Sơn, trong việc xây dựng lực lượng vũ trang, mở đầu cho các cuộc huấn luyện qui mô toàn quân về sau. Nguyễn Sơn được Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức giao nhiệm vụ: chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam, tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu 4. Ông cũng là hiệu trưởng Trường Lục quân Quảng Ngãi mà ông Phạm Kiệt (Lê Thùy) là tổng đội trưởng, ông Đoàn Khuê là chính trị viên tổng đội; rồi đích thân lập trường Thiếu sinh quân, tham gia viết giáo trình, giảng dạy, huấn luyện. Từ đây, đã sản sinh nhiều tướng lĩnh cao cấp quân đội ta sau này. Bên cạnh đó, Nguyễn Sơn còn là người khai sinh các sư đoàn lừng danh: Sư đoàn 304 (Thanh Nghệ Tĩnh), Sư đoàn 325 (Bình Trị Thiên)... Trước khi rời miền Trung ra Hà Nội vào năm 1951 để nhận chức Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân, trợ lực cho tướng Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đang bị bệnh nặng, tướng Trần Nam Trung là bạn chiến đấu của tướng Nguyễn Sơn ở Quân khu 4. Lão tướng Trần Nam Trung kể rằng: “Lúc đó, Nguyễn Sơn là cán bộ phụ trách quân sự. Còn tôi phụ trách chính trị. Hai chúng tôi thường gặp gỡ, trao đổi để thống nhất việc chỉ đạo công cuộc kiến quốc, kháng chiến. Là nhà quân sự bẩm sinh, lại được đào tạo chính qui từ trường Hoàng Phố, trải qua cuộc Vạn lý trường chinh ở Trung Quốc, Nguyễn Sơn có nhiều kinh nghiệm xây dựng và chỉ huy các lực lượng vũ trang". (Còn nữa) |